Danh mục

Giáo trình kỹ thuật khai thác thủy sản tập 1 part 9

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 457.01 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Dây neo thường được làm bằng dây tổng hợp (nilon, polyethylene,...). Yêu cầu đối với dây neo là phải chịu được kéo căng khi nước tác dụng lên lưới. dây neo nên được thả đủ dài để tránh tình trạng rê neo (cày neo). Để ổn định miệng lưới đáy ở đầu trên của ngáng người ta thả hai phao tiêu (thùng phuy) nổi lên mặt nước và phía dưới ngáng có vật nặng để ngáng luôn thẳng đứng. Phao tiêu (thùng phuy) này cũng còn giúp cho tàu bè đi lại biết được khu vực ta đang thả lưới...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình kỹ thuật khai thác thủy sản tập 1 part 9 Dây neo thường được làm bằng dây tổng hợp (nilon, polyethylene,...). Yêu cầu đốivới dây neo là phải chịu được kéo căng khi nước tác dụng lên lưới. dây neo nên đượcthả đủ dài để tránh tình trạng rê neo (cày neo). Để ổn định miệng lưới đáy ở đầu trên của ngáng người ta thả hai phao tiêu (thùngphuy) nổi lên mặt nước và phía dưới ngáng có vật nặng để ngáng luôn thẳng đứng.Phao tiêu (thùng phuy) này cũng còn giúp cho tàu bè đi lại biết được khu vực ta đangthả lưới đáy mà tránh ra xa lưới đáy. • Bè lưới Đáy Trên các sông rộng, có độ sâu lớn thường thấy lưới đáy hoạt động kết nhau thànhbè. Bè lưới đáy có chức năng nhằm cố định vị trí thả lưới đáy và tạo thành bệ nổi đểthả ngáng. Bè lưới đáy thường dùng các ghe lớn, cũ liên kết lại thành một loạt cácmiệng lưới, giữa hai ghe là một miệng lưới đáy. Ngáng cho bè lưới đáy cũng tương tự như cọc lưới đáy, nhưng sự khác biệt ở đâylà ngáng không thả xuống sát đáy, mà được dựng đứng lơ lững trong nước. Phía trêncủa ngáng thì được cố định bởi các bè, phía dưới thì có các dây chằng cố định sao chongáng luôn ở tư thế thẳng đứng. Vì thế miệng lưới đá bè luôn nằm cách mặt nước mộtđộ sâu nào đó cho dù nước lớn hay nước ròng. Ngáng H 9.5 - Bè lưới đáy9.4 Kỹ thuật khai thác lưới đáy Kỹ thuật khai thác lưới đáy gồm có hai bước: Chọn ngư trường (chọn bãi đặt lướiĐáy), và khai thác nghề lưới đáy. 9.4.1 Chọn ngư trường Chọn ngư trường hay còn gọi chọn nơi thả đáy. Nơi thả lưới đáy phải là nơi cónhiều cá, tôm qua lại, là nơi có dòng chảy tương đối mạnh và có nhiều thức ăn cho cá. - 58Tuy nhiên việc tìm nơi thả đáy không phải dễ dàng, vì nó liên quan đến sự đi lại củatàu bè và đường di chuyển của cá cũng thường thay đổi. Mặt khác lưới đáy là ngư cụcố định nên việc chọn nơi đặt lưới đáy cần phải tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế lâudài. Yêu cầu chung để chọn nơi đặt lưới đáy cần thỏa mãn các điều kiện sau: • Nơi có nhiều cá, tôm đi lại. Sản lượng khai thác phải ổn định lâu dài. • Thuận tiện và dễ dàng trong việc lắp đặt cọc (hoặc neo hoặc bè) lưới đáy. • Không bị ảnh hưởng bởi tàu bè đi lại. • Mật độ khai thác, số lượng miệng lưới đáy không quá đông ở khu vực dự định lắp đặt lưới đáy. Nếu có thể được thì nên chọn nơi đầu con nước (chặn trước so với các miệng lưới đáy khác) hoặc chọn ngay hướng luồng cá di chuyển vào (thường thấy ở ngã ba sông hoặc khúc quanh). • Nếu đánh bắt mang tính mùa vụ thì nên trang bị tương đối gọn, nhẹ, lắp đặt nhanh và tháo dỡ dễ dàng. • Gần nơi tiêu thụ sản phẩm thủy sản, thuận lợi cho việc vận chuyển ngư lưới cụ và sản phẩm thủy sản. 9.4.2 Kỹ thuật khai thác lưới đáy Nhìn chung kỹ thuật khai thác lưới đáy (đáy cọc, đáy neo, đáy bè, đáy cá tra,...) đềubao gồm các bước cơ bản sau: Chuẩn bị, chải lưới, thu lưới và bắt cá. Ta sẽ lần lượttìm hiểu một số nghề lưới đáy phổ biến ở ĐBSCL sau: 9.4.2.1 Kỹ thuật khai thác lưới đáy cọc• Chuẩn bị Bước chuẩn bị đối với lưới đáy cọc là vá các chổ lưới bị rách, thay thế các bộ phậnbị hư hỏng nặng và kém an toàn. Đồng thời kiểm tra các cọc đáy xem có bị mục, gãy,hoặc dây cáp căng cọc bị đứt hay không để kịp thơi sửa chữa. Sau đó chuyển lưới đếnđiểm thả đáy.• Thả lưới (chải đáy) Khi lưới đã được chuyển đến điểm thả đáy, thì buộc thuyền vào rượng dưới, tiếp đóvắt lưới lên rượng trên thành từng lớp từ đụt ở dưới, thân, cánh ở trên cùng. Tiếp đếnđưa hai đấu cánh (2 cặp điêu) về hai bên cọc rồi liên kết điêu với nài và mép sắt. Chú ýcoi chừng giềng bị xoắn. Chờ khi nước hạ thấp, dòng chảy vừa đủ để cho lưới trôi về phía sau thì tiến hànhtháo tay quay tời (thả mép sắt), ấn nhẹ cây chui, điêu lưới sẽ tự động tuột theo cọcxuống đến độ sâu đã định. Khi đó, dưới tác dụng của dòng chảy, miệng lưới từ từ mởra, kéo theo lưới (đã được dắt trên rượng trước đó) sẽ lần lượt tuột xuống nước và trôidần về phía sau. Khi lưới đã làm việc ổn định, ta thắt đáy đụt lại, rồi buộc dây đổ đụtvào rượng. - 59 Tiếp đến là thời gian chải đáy, thời gian chải đáy tùy thuộc vào chu kỳ thay đổichiều dòng chảy, tốc độ dòng chảy và mật độ cá vào đáy,... mà có thời gian chải đáykhác nhau.• Đổ đụt (thu cá) Sau thời gian chải đáy nhất định nào đó, thì ta tiến hành đổ đụt. Trước hết ta dùngghe (thuyền) lần theo dây đổ đụt (dây thắt đáy đụt), dùng dây này kéo đụt lên thuyền.Tiếp đó tháo miệng đụt (hoặc mở miệng rọ) rồi trút cá ra.• Thu lưới Khi hết giai đoạn thả lưới (tùy theo con nước cá xuất hiện, thông thường 5-7 ngày)thì ta thu lưới đem vào bờ. Để thu lưới trước hết ta gắn tay quay vào tời, quay tời ...

Tài liệu được xem nhiều: