Danh mục

Giáo trình lý thuyết viễn thông 15

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 219.61 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong mạng thuê bao có thể xử lý nhiều loại thông tin và tốc độ, ghép kênh sơ cấp được thực hiện với phương pháp DTDM (TDM động lực) và sau đó, tại tổng đài, kết quả ghép kênh được phân kênh lại với phương pháp TDM.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình lý thuyết viễn thông 15 loại lai ghép mà có thể thích ứng với ATM và STM để phản ánh các yêu cầu của SONET qua việc áp dụng phương pháp truyền đồng bộ. Họ đề xuất một cấu trúc truyền bǎng rộng 2 bậc cho một mạng thuê bao bằng cách sử dụng đồng thời chuyển mạch gói và chuyển mạch tuyến; nghĩa là, trong mạng thuê bao có thể xử lý nhiều loại thông tin và tốc độ, ghép kênh sơ cấp được thực hiện với phương pháp DTDM (TDM động lực) và sau đó, tại tổng đài, kết quả ghép kênh được phân kênh lại với phương pháp TDM. Về phần này, việc ghép kênh các phần thuê bao trở nên quan trọng hơn việc ghép kênh của truyền dẫn giữa các tổng đài và vì lẽ đó, một trong các mục tiêu lớn trong lĩnh vực truyền dẫn là phát triển các thiết bị điều khiển và ghép kênh cuả các đầu cuối thuê bao cần thiết cho việc cung cấp các dịch vụ một cách kinh tế và hiệu quả. Hình 3.38. Cấu trúc DTDM của mạng thuê bao3.8 Công nghệ truyền dẫn thuê bao3.8.1 Phần giới thiệu. Mạng thuê bao được sử dụng để nối các đầu cuối thuê bao trong nhà của các thuê bao với mạng thông tin. Có thể sử dụng nhiều phương pháp liên tục kiểu có dây/không có dây. Tuy nhi ên, đối với các thuê bao chung, loại được sử dụng rộng rãi nhất là phương pháp truyền bǎng tần tiếng nói tương tự bằng cách sử dụng cáp kim loại 2 hoặc 4 dây. Kể từ khi sáng chế ra các hệ thống điện tín và điện thoại khoảng 100 nǎm trước, các loại cáp kim loại được sử dụng rộng rãi như là mộtphương tiện tốt nhất để nối các thuê bao với các mạng thông tin. Trừmột vài sửa đổi vật lý như việc lắp thêm các cuộn tải và cuộn hybrid,các dây cáp được sử dụng ngày nay chủ yếu là giống với các loại dâyđược sử dụng trong giai đoạn khởi đầu của sự phát triển. Nói cáchkhác, trong số các thuê bao, sự truyền dẫn và các phương tiện chuyểnmạch, 3 bộ phận quan trọng của truyền thông, sự truyền dẫn và cácphương tiện chuyển mạch đã được cải tiến một cách đáng kể theonhững tiến bộ trong công nghệ thông tin liên lạc, máy tính điện tử vàcông nghệ bán dẫn. Mặt khác, các phương tiện thuê bao chủ yếu vẫnđược duy trì như trước và mục tiêu xử lý tiếng nói tương tự có dảibǎng rộng 300-3400Hz vẫn có giá trị đến ngày nay.Trong những nǎm 1980, SLIC (mạch giao tiếp đường thuê bao) choviệc thay thế các cuộn hybrid bằng các phần tử bán dẫn, và các phầntử bán dẫn mới và các thiết bị truyền dẫn như các thiết bị tậptrung/ghép kênh thuê bao dạng số để tiết kiệm các mạch thuê baođang được áp dụng từng bước vào mạng thuê bao. Tuy nhiên, chúngđược sử dụng chủ yếu cho việc xử lý dải tần tiếng nói tương tự chẳnghạn trong trường hợp các phương pháp hiện có.Trong suốt thời gian khi các mạng lưới thông tin liên lạc được sử dụngchủ yếu cho việc chuyển các thông tin tiếng nói và có ít nhu cầu chonhững liên lạc dữ liệu tốc độ cao, các yêu cầu của người sử dụngđược đáp ứng chỉ với các cáp kim loại hoạt động với dải tần300Hz~3400Hz. Tuy nhiên, vì các nhu cầu ngày càng tǎng, nhu cầuthiết lập các mạng lưới thuê bao tân tiến và ISDN (mạng đa dịch vụ) làcần thiết. ISDN có thể được xác định là một mạng lưới liên lạc có khảnǎng cung cấp sự kết nối số từ các máy thuê bao chủ gọi đến các máythuê bao bị gọi và xử lý hàng loạt loại dịch vụ tiếng nói và phi tiếng nói.Như vậy, việc số hoá toàn bộ mạng lưới liên lạc là cần thiết phải thựchiện trước tiên trong trình tự thiết lập loại mạng truyền thông này. Vìnhững ưu điểm của chúng, phương pháp truyền thông số đã được ápdụng vào lĩnh vực truyền dẫn từ những nǎm 1960 và vào lĩnh vựcchuyển mạch từ những nǎm cuối thập niên 1970. Việc nghiên cứu vềsố hoá các tuyến thuê bao đã được tiến hành từ những nǎm cuối củathập niên 70. Một loạt phương pháp khác như việc lắp đặt các phươngtiện truyền dẫn mới có giá trị cho việc số hoá các tuyến thuê bao; khinhận ra rằng chi phí thiết lập các thiết bị thuê bao chiếm khoảng 40%tổng đầu tư thiết lập mạng liên lạc thì cách tốt nhất là truyền các tínhiệu số theo đường cáp kim loại hiện có. Tuy nhiên, dù các tuyến thuêbao đã được số hoá thông qua việc sử dụng công nghệ tân tiến nhất,thì tốc độ truyền vẫn bị hạn chế ở khoảng 100Kbps~200Kbps để duy trì khoảng cách truyền tin lớn nhất. Do đó, những mạng lưới thuê bao hiện có cần phải được sắp xếp lại toàn bộ trong quá trình chuẩn bị cho ISVN (mạng đa dịch vụ hình) hoặc ISDN bǎng rộng, được coi là thế hệ kế tiếp của ISDNs. Nghĩa là, trong các mạng liên lạc thông tin hình tích hợp, khả nǎng cho việc xử lý hình ảnh là cần thiết và để truyền các tín hiệu hình, cần có 1 bǎng rộng hàng trǎm Mbps từ các mức thuê bao. Các phương pháp thuê bao cáp quang và không dây đang được xem xét như các phương tiện truyền dẫn để xử lý thông tin bǎng rộng như vậy. Trừ những địa điểm đặc biệt như các khu vực rừng núi, việc áp dụng cáp quang được coi là khả thi nhất.3.8.2 Đường truyền dẫn. Các cáp kim loại cho loại liên lạc dùng dây còn được phân chia thành cáp ...

Tài liệu được xem nhiều: