Danh mục

Giáo trình Phương pháp hình thành biểu tượng toán cho trẻ (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non): Phần 2

Số trang: 34      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.18 MB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Phần 2 Giáo trình Phương pháp hình thành biểu tượng toán cho trẻ (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non) trình bày các nội dung: Tổ chức việc hình thành biểu tượng ban đầu về kích thước vật thể cho trẻ mầm non; tổ chức việc hình thành biểu tượng ban đầu về hình dạng vật thể cho trẻ mầm non; tổ chức hình thành biểu tượng về định hướng không gian cho trẻ mầm non; tổ chức hình thành biểu tượng về định hướng thời gian cho trẻ mầm non.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Phương pháp hình thành biểu tượng toán cho trẻ (Dùng cho hệ đào tạo từ xa – ngành GD Mầm non): Phần 2 Chương VI Tổ chức việc hình thành biểu tượng ban đầu về kích thước vật thể cho trẻ mầm non I. Khái niệm về kích thước. 1. Kích thước là một khái niệm toán học dùng để chỉ độ lớn, độ dài, dung tích, thể tích, diện tích… của đối tượng. Nói đến đồ lớn là nói đến độ To Nhỏ. Nói đến đồ dài là nói đến chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Nói đến diện tích là phần mà vật chiếm chỗ trên mặt phẳng. Nói đến thể tích là phần vật chiếm chỗ trong không gian 3 chiều. Nói đến dung tích là phần vật chứa được vật khác. 2. Để phân biệt chiều dài, chiều rộng, chiều cao cần dựa vào các dấu hiệu sau: Nếu vật dắc trưng bởi 1 đại lượng kích thước về độ dai thì khi đại lượng đó đặtvuông góc với mặt đất sẽ được gọi là chiều cao. Nếu đặt ở các tư thế khác được gọi làchiều dài. Nếu vật đặc trưng bởi 2 đại lươngk kích thước về độ dài thì 2 đại lượng đó làchiều dài và chiều rộng, trong đó chiều dài là chiều có độ dài dài hơn. Nếu vật đặc trưng bởi 3 đại lượng kích thước về độ dài thì trong 3 đại lượng đó,đại lượng nào vuông góc với mặt đất được gọi là chiều cao, 2 đại lượng còn lài làchiều dài và chiều rộng.3. Kích thước của vật thể có tính tương đối. Khi thay đổi đơn vị đo, giá trị của kíchthước sẽ thay đổi. Ví dụ: Khi so sánh vật A với vật B, ta có vật A to hơn vật B. Nếu so sánh vật Avới vật C, ta có vật A nhỏ hơn vật C. Như vậy, giá trị về độ lớn của vật A bị thay đổikhi so sánh với các đối tượng khác nhau.II. Đặc điểm tri giác kích thước vật thể ở trẻ . Trẻ em nhận biết các kích thước của các vật nhờ có sự tham gia tích cực của cácgiác quan mà chủ yếu là thị giác và xúc giác, sau đó dụng ngôn ngữ để khái quát vànhận biết về kích thước. Trong tâm lí học gọi khả năng nhận biết (cảm thụ) khích thước vật ở các vị tríkhác nhau là hệ số thụ cảm. Sự cảm thụ kích thước phụ thuộc vào kinh nghiệm, khảnăng ước lượng bằng mắt, sự phát triển về ngôn ngữ, sự tham gia của các quá trình tư 38duy: so sánh, phân tích, tổng hợp và sự tác động của các nhà giáo dục. Vì hệ số thụcảm về kích thước vật tăng theo kinh nghiệm, sự phát triển về tâm, sinh lý từng lứatuổi và sự hướng dẫn của các nhà giáo dục. trẻ ở các lứa tuổi khác nhau thì khả năngnhận biết về kích thước của vật cũng khác nhau. 1. Trẻ dưới 3 tuổi Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: Trẻ từ một tuổi trở lên có khả năngnhận biết kích thước của vật, khả năng này được tăng lên theo mức độ tích luỹ kinhnghiệm trong quá trình trẻ hoạt động với đồ vật. Trẻ lên 2 tuổi, trước khi biết nói thành thạo trẻ đã có những phản ứng với nhữngkích thước khác nhau của vật và cả với mối liên hệ giữa các đối tượng có kích thướckhác nhau. Tuy nhiên ở lứa tuổi này trẻ khó phân biệt các loại khích thước khác nhauvà khó đánh giá các vật. Những kinh nghiệm phân biệt kích thước thường mang tínhcục bộ, những dấu hiệu mà trẻ đã biết về kích thước của các vật cụ thể thường mangtính tuyệt đối chứ không phải là tương đối. Ví dụ: Trẻ thường coi quả bóng hay củ cà rốt mình đã chọn được trong giá đồchơi là to hơn của các bạn hay con chó nhà mình là to nhất (tức là to hơn con chó nhàcác bạn khác) mà không cần biết đến đối tượng để so sánh. Điều đó chứng tỏ trẻ chưahiểu được tính tương đối khi so sánh kích thước các đối tượng. 2. Đối với trẻ mẫu giáo: Trẻ 34 tuổi: Trẻ có thể nhận biết về một chiều kích thước của vật và trẻ có thểlàm đúng theo yêu cầu của người lớn. Ví dụ: Trẻ có thể nhận biết đúng một người là người lớn hay trẻ con. Hoặc đemđến một quả bóng to, một cái thước dài cho cô. Trong ngôn ngữ thụ động của trẻ đã bắt đầu có những từ và khái niệm về cáckích thước khác nhau của vật. Song vốn từ của trẻ còn ít và trẻ cũng chưa hiểu được ýnghĩa của danh từ “kích thước”, chưa nắm được biểu tượng của từng loại kích thướcnên chúng trả lời không chính xác về kích thước của vật. Ví dụ: Trẻ thường nói: “cây to” thay cho “cây cao”, nói “ bút chì to” thay cho “bút chì dài”. Ở lứa tuổi này do khả năng ước lượng bằng mắt còn kém, động tác tay chưathành thạo, vốn ngôn ngữ còn nghèo nàn nên trẻ chỉ có khả năng phân biệt kích thướccủa 2 vật có độ chênh lệch lớn bằng thị giác, chưa có khả năng so sánh. Trẻ 45 tuổi ( mẫu giáo nhỡ) 39 Do trẻ được tiếp xúc trực tiếp nhièu lần với các đồ chơi và các vật có kích thước khác nhau nên khả năng định hướng của trẻ về kích thước vật thể được xác định chủ yếu do ước lượng bằng mắt kết hợp với kinh nghiệm, sự cảm thụ của lời nói, sự tham gia của các thao tác tư duy: so sánh, phân tích tổng hợp. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: