Danh mục

Giáo trình Tài chính công và công sản: Phần 2 - PGS.TS. Trần Văn Giao

Số trang: 85      Loại file: pdf      Dung lượng: 985.83 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (85 trang) 0
Xem trước 9 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mời các bạn tham khảo tiếp Giáo trình Tài chính công và công sản: Phần 2 gồm chương 3, 4 và chương 5. Nội dung của 3 chương cuối trình bày về quản lý tín dụng nhà nước, quản lý các quỹ tài chính công ngoài ngân sách nhà nước và quản lý công sản.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Tài chính công và công sản: Phần 2 - PGS.TS. Trần Văn Giao Chương 3: QUẢN LÝ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC 1.1. Tính tất yếu khách quan và bản chất của tín dụng Nhà nước 1.1.1. Tính tất yếu khách quan của tín dụng nhà nước Thuật ngữ 'tín dụng' xuất phát từ chữ La tinh: Creditum có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Trong tiếng Anh được gọi là 'credit', tiếng Nga được gọi là 'kpegum', theo ngôn ngữ dân gian ở Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng đã xuất hiện cùng với sự phân công lao động xã hội, sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành sự nợ nần lẫn nhau, những quan hệ vay mượn để thanh toán. Như vậy tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, là sự vận động của quy luật giát rị. Tín dụng nhà nước là hoạt động vay - trả giữa Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục đích quản lý vĩ mô của nhà nước. Tín dụng nhà nước ra đời và phát triển là xuất phát từ các lý do sau đây: Thứ nhất: Do quy mô chi ngân sách Nhà nước ngày càng mở rộng và tăng lên, nhưng thu ngân sách Nhà nước luôn bị hạn chế bởi những giới hạn nhất định như tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, các định chế pháp lý, điều đó thường dẫn đến sự thiếu hụt nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Thiếu vốn cho đầu tư không những làm cho nhà nước thiếu hậu thuẫn về ngân sách để điều chỉnh kinh tế vĩ mô mà còn làm cho việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng phải dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước hàng năm mặc dù có xu hướng tăng lên thì nguồn vốn đầu tư vẫn rất thiếu. Do đó việc phát huy tốt hơn vai trò của tín dụng nhà nước để mở rộng kênh nguồn vốn ngân sách Nhà nước thông qua huy động vốn là một tất yếu khách quan để tăng cường chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước Thứ hai: Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường không phải là một mô hình kinh tế hoàn hảo mà còn chưa đựng những khuyết tật thuộc bản chất 98 vốn có của nó như không chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội, phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, gây mất ổn định kinh tế, chính trị, 91 xã hội và dẫn đến việc hình thành cơ cấu kinh tế tự phát, sứpt mất cân đối, bất ổn định của một quốc gia... cuộc khủng hoảng toàn diện của kinh tế thế giới từ bản thời kỳ 1929 - 1933 là một minh chứng thực tế chủ ra rằng cơ chế thị trường bản thân nó không thể đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững. Chính vì lý do này mà mô hình kinh tế hỗn hợp đang ngày càng chiếm ưu thế, ở đó vai trò điều tiết của Nhà nước ngày càng được khẳng định. Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ tài chính công như: thuế, phí, chi ngân sách Nhà nước ngoài ra Nhà nước còn sử dụng công cụ tín dụng và coi đó là một trong những biện pháp điều tiết vĩ mô hữu hiệu của nhà nước trong những giai đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế nhà nước. Thứ ba: Một đặc điểm phổ biến và nổi vật trong phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay là hướng ra bên ngoài, hội nhập cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới bằng việc đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương và các hoạt động đối ngoại khác. Hơn nữa, xu thế toàn cầu hoà và tự do hoá các luồng vốn là một tất yếu trong thế kỷ XXI. Chính sự phát triển của kinh tế thế giới và sự mở rộng các hoạt động đối ngoại cũng như xu thê toàn cầu hoá, tự do hoá các luồng vốn là cơ sở phát sinh các mối quan hệ tín dụng của Nhà nước giữa các quốc gia với nhau. Từ những lý do trên đây có thể kết luận rằng, tín dụng Nhà nước là một đòi hỏi tất yếu khách quan của Nhà nước. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã phát triển, các chủ thể kinh tế - tài chính khẳng định được vị trí trên thị trường trong và ngoài nước thì vai trò của hoạt động tín dụng nhà nước sẽ giảm dần, việc ưu đãi trong hoạt động tín dụng nhà nước không được ưu chuộng vì nó tiềm ẩn sự bất bình đẳng và có thể bóp méo hoạt động của thị trường tài chính lành mạnh. 1.1.2. Bản chất của tín dụng nhà nước Tín dụng nhà nước ra đời, thoạt tiên để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước cho các khoản tiêu dùng thường xuyên và không tham gia vào chu trình tái sản xuất của nền kinh tế. Qua quá trình phát triển, chức năng bù đắp thiếu thụ ngân sách Nhà nước của tín dụng nhà nước được sử dụng tích cực hơn nhằm bù đắp những khoản chi cho đầu tư phát triển nền kinh tế, tăng thêm nguồn lực tài chính cho nhà nước để thực thi các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng nhà nước là một dạng của tín dụng nói chung Chức năng cơ bản của tín dụng nhà nước là bù đắp thiếu hụt ngân sách và phân phối lại các nguồn vốn để thoả mãn nhu cầu đầu 92 tư của các chủ thể theo kế hoạch, định hướng của nhà nước. Tuy nhiên, tín dụng nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội và chính trị. Sự kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội là đặc trưng của tín dụng nhà nước và là mục tiêu hoạt động, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác quản lý tín dụng nhà nước. Lợi ích kinh tế thể hiện trực tiếp trên lợi tức tiền vay, thể hiện gián tiếp qua việc thụ hưởng các tiện nghi công cộng, có thêm việc làm do đầu tư của Nhà nước mang mại. Đối với vay nợ nước ngoài, lợi ích kinh tế không chỉ thể hiện trên lợi tức tiền vay mà còn mang lại cho nước chủ nợ nhiều lợi ích khác nhau về thuế quan, về xuất nhập khẩu hàng hoá... Lợi ích chính trị, xã hội của tín dụng nhà nước thể hiện ở lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ, ở trách nhiệm và mối quan tâm của Chính phủ đối với dân chúng chẳng hạn như cho vay đầu tư, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo. Trong quan hệ đối ngoại, lợi ích chính trị thể hiện qua mối quan hệ chính trị, ngoại giao giữa nước chủ nợ và nước con nợ. Với đặc tính kinh tế và xã hội trên đây, tín dụng nhà nước thường có các đặc điểm sau: - Nguồn vốn để cho vay là vốn của ngân sách Nhà nước được cân đối để c ...

Tài liệu được xem nhiều: