GÓC NHÌN HỘI HOẠ TRÊN MỘT SỐ CHẠM KHẮC GỖ THANH HOÁ
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 134.73 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong lịch sử tạo hình Việt Nam, lĩnh vực hội họa gần như không phát triển, tuy nhiên trên một khía cạnh khác, các chạm khắc gỗ truyền thống trong các đình đền chùa, bên cạnh những giá trị điêu khắc, lại ít nhiều mang tính hội họa. Chúng được thể hiện ra trên hình khối đường nét, ánh sáng và màu sắc trong không gian. ở bài viết này với tư cách của một họa sĩ, chúng tôi xin được nêu ra những góc nhìn mang tính chất chiêm nghiệm về hội họa qua những bức chạm khắc gỗ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GÓC NHÌN HỘI HOẠ TRÊN MỘT SỐ CHẠM KHẮC GỖ THANH HOÁ GÓC NHÌN HỘI HOẠ TRÊN MỘT SỐ CHẠM KHẮC GỖ THANH HOÁ chạm khắc Nghệ Nguyệt Viên (Hoằng Quang, Hoằng Hoá) Trong lịch sử tạo hình Việt Nam, lĩnh vực hội họa gần như không phát triển, tuy nhiên trên một khía cạnh khác, các chạm khắc gỗ truyền thống trong các đình đền chùa, bên cạnh những giá trị điêu khắc, lại ít nhiều mang tính hội họa. Chúng được thể hiện ra trên hình khối đường nét, ánh sáng và màu sắc trong không gian. ở bài viết này với tư cách của một họa sĩ, chúng tôi xin được nêu ra những góc nhìn mang tính chất chiêm nghiệm về hội họa qua những bức chạm khắc gỗ truyền thống ở Thanh Hóa qua hai di tích điển hình chùa Hoa Long (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lộc) và nghè Nguyệt Viên (Hoằng Quang, Hoằng Hóa). Nếu trong hội hoạ, người ta sử dụng các chất liệu, ngôn ngữ của hội hoạ như bố cục, đường nét, màu sắc, hình khối, đậm nhạt, kỹ thuật chất liệu để biểu thị một chủ đề ý tưởng của người nghệ sĩ, thì trên những bức chạm khắc gỗ bằng ngôn ngữ của điêu khắc, người nghệ nhân cũng thể hiện ý tưởng của mình trên gỗ. Tuy nhiên khác với những tác phẩm hội họa, những bức chạm này thường không có tính chất độc lập mà gắn liền với những công trình kiến trúc. Chúng cũng không hoàn toàn được sáng tác theo ý tưởng riêng của người nghệ sĩ, mà đa phần đều được xây dựng từ các quan niệm dân gian thể hiện thông điệp đối với thần linh cũng như với con cháu mai sau. Trong một di tích, cũng như trong hội hoạ, trên các bức chạm khắc gỗ thường quan tâm đến bố cục chung của tác phẩm. Nhưng do không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào kiến trúc, nên các tác phẩm chạm khắc gỗ thường chịu sự qui định của khung hình các cấu kiện kiến trúc như hình chữ nhật, hình vuông ở các ván ghép, ván bưng, hình ô van ở các ván rốn nhện, hay hình tam giác ở các vì nách... Do đó muốn tạo nên một bố cục đẹp cho các tác phẩm người nghệ nhân thường chạm chúng với sự phát huy hết khả năng tạo dựng cho một tác phẩm độc lập hoặc li ên kết chúng thành một thể thống nhất. Hai mảng chạm trên bức vách chùa Hoa Long và nghè Nguyệt Viên có thể xem là những mảng chạm khắc điển hình cho nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII và thế kỷ XIX ở Thanh Hóa. Những bức vách này đã tạo nên những mảng trang trí rất cầu kỳ cho công trình kiến trúc phía bên ngoài. Đây cũng là những tác phẩm rất đặc trưng cho nghệ thuật trang trí kiến trúc thế kỷ XVII - XVIII ở Thanh Hóa. Nhìn tổng thể bố cục của hai bức vách này ta có thể thấy chúng giống như một tác phẩm mà ít nhiều chất tố hội họa được chú trọng. ở cả hai công trình, các mảng chạm đều được bố cục một cách đăng đối sang hai bên rất chặt chẽ. Chúng là sự kết hợp nhuần nhị giữa các chức năng kiến trúc mặt ngoài và chức năng trang trí. Như bức vách chùa Hoa Long- Vĩnh Thịnh- Vĩnh Lộc, hai bức này đăng đối với cửa chính theo trục tung. Hai mảng chạm hai bên này còn được kết hợp với khoảng trống hai khung cửa sổ, để tạo độ nghỉ mắt cho toàn bộ bức vách. Cả mảng chạm này có thể xem như một bức tranh mà ở đó những mảng chính phụ đã được chú trọng tới và phân định theo những điểm nh ìn khác nhau. Người ta có thể thấy tính chất liên hoàn trong bố cục như, phía trên của những thanh song cửa là hàng loạt các bức chạm khắc. Chúng được liên kết với mảng chạm bên dưới bằng hai bức chạm chạy dọc theo hai khung cửa và cuối cùng được tạo hình bằng một kết cấu giống như một mảng chạm ở chân của các diềm sập quì, khiến cho cả mảng chạm khắc trên bức vách này trở nên sinh động. Nó khác với việc tạo hình trang trí cho cửa gỗ chấn song, mà là sự quan tâm của người nghệ nhân được nhìn thấy trong một khối hình tổng quát của cả bức vách. ở đây, người nghệ nhân đã bỏ qua định luật xa gần, những nguyên tắc bố cục theo tính hợp lý của hiện thực để tạo ra một sự hợp lý khác của nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian. Trên mảng chạm này, thủ pháp đồng hiện đã được các nghệ nhân khai thác một cách triệt để. Nó cho phép cùng một lúc có thể tái hiện nhiều hoạt cảnh của đời sống với không gian và thời gian khác nhau. Các hình ảnh được phân ra từng nhóm nhân vật được bố trí trên cùng một trục nhìn ngang, lấy đề tài từ các sinh hoạt của đời sống dân gian mang hình thức tượng trưng như uống rượu, đấu vật, kéo co, hay các mô típ về hoa lá, vật linh như hổ, lân, rồng, nghê, đều được chạm trong sự phân đoạn đều đặn của các ô. Các biểu tượng này nhìn qua tưởng chừng như được chạm một cách đối xứng nhưng đôi khi lại mang tính chất rất ngẫu hứng. Ngôn ngữ chạm khắc ở đây cũng được nhìn một cách đa chiều theo kỹ thuật chạm khắc như chạm lộng, chạm bong, chạm thủng... Sự kết hợp của các kỹ thuật này cũng cho thấy con mắt hội họa của các nghệ nhân. Ví dụ như phía trên và dưới ô cửa, thì các mảng chạm thường chỉ là chạm nổi để nền trơn, trong khi hai mảng chạm hai bên song cửa lại là mảng chạm thủng (nay mảng chạm này đã hỏng, chỉ còn lại một bên). Lối chạm thủng được đặt vào đây khiến cho toàn bộ mảng chạm được liên kết lại với những chấn song của hai ô cửa một cách tự nhiên nh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GÓC NHÌN HỘI HOẠ TRÊN MỘT SỐ CHẠM KHẮC GỖ THANH HOÁ GÓC NHÌN HỘI HOẠ TRÊN MỘT SỐ CHẠM KHẮC GỖ THANH HOÁ chạm khắc Nghệ Nguyệt Viên (Hoằng Quang, Hoằng Hoá) Trong lịch sử tạo hình Việt Nam, lĩnh vực hội họa gần như không phát triển, tuy nhiên trên một khía cạnh khác, các chạm khắc gỗ truyền thống trong các đình đền chùa, bên cạnh những giá trị điêu khắc, lại ít nhiều mang tính hội họa. Chúng được thể hiện ra trên hình khối đường nét, ánh sáng và màu sắc trong không gian. ở bài viết này với tư cách của một họa sĩ, chúng tôi xin được nêu ra những góc nhìn mang tính chất chiêm nghiệm về hội họa qua những bức chạm khắc gỗ truyền thống ở Thanh Hóa qua hai di tích điển hình chùa Hoa Long (Vĩnh Thịnh, Vĩnh Lộc) và nghè Nguyệt Viên (Hoằng Quang, Hoằng Hóa). Nếu trong hội hoạ, người ta sử dụng các chất liệu, ngôn ngữ của hội hoạ như bố cục, đường nét, màu sắc, hình khối, đậm nhạt, kỹ thuật chất liệu để biểu thị một chủ đề ý tưởng của người nghệ sĩ, thì trên những bức chạm khắc gỗ bằng ngôn ngữ của điêu khắc, người nghệ nhân cũng thể hiện ý tưởng của mình trên gỗ. Tuy nhiên khác với những tác phẩm hội họa, những bức chạm này thường không có tính chất độc lập mà gắn liền với những công trình kiến trúc. Chúng cũng không hoàn toàn được sáng tác theo ý tưởng riêng của người nghệ sĩ, mà đa phần đều được xây dựng từ các quan niệm dân gian thể hiện thông điệp đối với thần linh cũng như với con cháu mai sau. Trong một di tích, cũng như trong hội hoạ, trên các bức chạm khắc gỗ thường quan tâm đến bố cục chung của tác phẩm. Nhưng do không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào kiến trúc, nên các tác phẩm chạm khắc gỗ thường chịu sự qui định của khung hình các cấu kiện kiến trúc như hình chữ nhật, hình vuông ở các ván ghép, ván bưng, hình ô van ở các ván rốn nhện, hay hình tam giác ở các vì nách... Do đó muốn tạo nên một bố cục đẹp cho các tác phẩm người nghệ nhân thường chạm chúng với sự phát huy hết khả năng tạo dựng cho một tác phẩm độc lập hoặc li ên kết chúng thành một thể thống nhất. Hai mảng chạm trên bức vách chùa Hoa Long và nghè Nguyệt Viên có thể xem là những mảng chạm khắc điển hình cho nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII và thế kỷ XIX ở Thanh Hóa. Những bức vách này đã tạo nên những mảng trang trí rất cầu kỳ cho công trình kiến trúc phía bên ngoài. Đây cũng là những tác phẩm rất đặc trưng cho nghệ thuật trang trí kiến trúc thế kỷ XVII - XVIII ở Thanh Hóa. Nhìn tổng thể bố cục của hai bức vách này ta có thể thấy chúng giống như một tác phẩm mà ít nhiều chất tố hội họa được chú trọng. ở cả hai công trình, các mảng chạm đều được bố cục một cách đăng đối sang hai bên rất chặt chẽ. Chúng là sự kết hợp nhuần nhị giữa các chức năng kiến trúc mặt ngoài và chức năng trang trí. Như bức vách chùa Hoa Long- Vĩnh Thịnh- Vĩnh Lộc, hai bức này đăng đối với cửa chính theo trục tung. Hai mảng chạm hai bên này còn được kết hợp với khoảng trống hai khung cửa sổ, để tạo độ nghỉ mắt cho toàn bộ bức vách. Cả mảng chạm này có thể xem như một bức tranh mà ở đó những mảng chính phụ đã được chú trọng tới và phân định theo những điểm nh ìn khác nhau. Người ta có thể thấy tính chất liên hoàn trong bố cục như, phía trên của những thanh song cửa là hàng loạt các bức chạm khắc. Chúng được liên kết với mảng chạm bên dưới bằng hai bức chạm chạy dọc theo hai khung cửa và cuối cùng được tạo hình bằng một kết cấu giống như một mảng chạm ở chân của các diềm sập quì, khiến cho cả mảng chạm khắc trên bức vách này trở nên sinh động. Nó khác với việc tạo hình trang trí cho cửa gỗ chấn song, mà là sự quan tâm của người nghệ nhân được nhìn thấy trong một khối hình tổng quát của cả bức vách. ở đây, người nghệ nhân đã bỏ qua định luật xa gần, những nguyên tắc bố cục theo tính hợp lý của hiện thực để tạo ra một sự hợp lý khác của nghệ thuật chạm khắc gỗ dân gian. Trên mảng chạm này, thủ pháp đồng hiện đã được các nghệ nhân khai thác một cách triệt để. Nó cho phép cùng một lúc có thể tái hiện nhiều hoạt cảnh của đời sống với không gian và thời gian khác nhau. Các hình ảnh được phân ra từng nhóm nhân vật được bố trí trên cùng một trục nhìn ngang, lấy đề tài từ các sinh hoạt của đời sống dân gian mang hình thức tượng trưng như uống rượu, đấu vật, kéo co, hay các mô típ về hoa lá, vật linh như hổ, lân, rồng, nghê, đều được chạm trong sự phân đoạn đều đặn của các ô. Các biểu tượng này nhìn qua tưởng chừng như được chạm một cách đối xứng nhưng đôi khi lại mang tính chất rất ngẫu hứng. Ngôn ngữ chạm khắc ở đây cũng được nhìn một cách đa chiều theo kỹ thuật chạm khắc như chạm lộng, chạm bong, chạm thủng... Sự kết hợp của các kỹ thuật này cũng cho thấy con mắt hội họa của các nghệ nhân. Ví dụ như phía trên và dưới ô cửa, thì các mảng chạm thường chỉ là chạm nổi để nền trơn, trong khi hai mảng chạm hai bên song cửa lại là mảng chạm thủng (nay mảng chạm này đã hỏng, chỉ còn lại một bên). Lối chạm thủng được đặt vào đây khiến cho toàn bộ mảng chạm được liên kết lại với những chấn song của hai ô cửa một cách tự nhiên nh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
trào lưu nghệ thuật chạm khắc nghệ thuật mỹ thuật truyền thông nghệ thuật dân gian biểu tượng văn hóa kiến thức mỹ thuậtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 338 0 0 -
50 năm ngày Marilyn Monroe qua đời: Đẹp đến đau lòng
11 trang 135 0 0 -
Giải bài Kinh tế, văn hoá thế kỉ XVI – XVIII SGK Lịch sử 7
3 trang 114 0 0 -
7 trang 81 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 54 0 0 -
10 trang 51 0 0
-
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 49 1 0 -
Hoạt động giáo dục giá trị nghệ thuật dân gian - Dân tộc trong học đường ở thành phố Hồ Chí Minh
11 trang 43 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 43 0 0 -
Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt: Phần 1
135 trang 41 0 0