Ven Tây Hồ, một cảnh quan đẹp và nên thơ bậc nhất Thăng Long - Hà Nội, có những làng chuyên trồng quất Nghi Tàm, làng chuyên trồng đào như Nhật Tân, trồng các loại hoa như Phú Xá, vào xuân rực lên đủ màu, đủ sắc. Bên cạnh đó lại còn có những làng nghề, từng vào ca dao, sử sách thời xưa. Không biết làng Võng Thị xưa có chuyên nấu rượu hay không, tôi sinh sau để muộn không rõ, nhưng đọc thơ phú xưa thấy .........
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HÀ NỘI CÓ MỘT LÀNG NGHỀHÀ NỘI CÓ MỘT LÀNG NGHỀTrong bài Phú thượng Tây Hồ Nguyễn Huy Lượng thời Tây Sơn nói về nghề làmgiấy rất thơ: Chày Yên Thái nện trong sương loảng choảng ....Ven Tây Hồ, một cảnh quan đẹp và nên thơ bậc nhất Thăng Long - Hà Nội, có nhữnglàng chuyên trồng quất Nghi Tàm, làng chuyên trồng đào như Nhật Tân, trồng các loạihoa như Phú Xá, vào xuân rực lên đủ màu, đủ sắc. Bên cạnh đó lại còn có những làngnghề, từng vào ca dao, sử sách thời xưa. Không biết làng Võng Thị xưa có chuyên nấurượu hay không, tôi sinh sau để muộn không rõ, nhưng đọc thơ phú xưa thấy ... hìnhnhư nơi đây có lò rượu nên trong Phú chiến tụng Tây Hồ, Phạm Thái mới viết:Chợ Võng Thị rượu nồng hương mới chínLũ tuy ông tất tả dáng sang đò...Hẳn là nơi đây khi xưa phải có lò rượu, nên khi mẻ rượu vừa cất xong toả nức hươngthơm, gió Tây Hồ toả hương rượu sang bên kia bờ nên đám dân nghiền mới tất tảkéo sang chợ Võng Thị mà say sưa. Trong Địa dư chí của Nguyễn Trãi, những làngkhác ven Hồ Tây cũng được ông ghi như sau: Phường Thuy Chương dệt lụa, phườngYên Thái làm giấy. Yên Thái nằm trong vùng Bưởi bây giờ, nhưng cách Bưởi khôngxa có làng Cầu Giấy, Cầu Giấy nằm bên sông Tô Lịch. Cạnh đó còn có Đông Xá, HồKhẩu, thôn Nghè... xưa đều nằm trong vùng Bưởi.Trong bài Phú thượng Tây Hồ Nguyễn Huy Lượng thời Tây Sơn nói về nghề làmgiấy rất thơ: Chày Yên Thái nện trong sương loảng choảng. Hẳn là, tà mạn Bưởi,Yên Thái, tiếng chày giã dó thành bột để làm giấy đã vang động cả một vùng hồnước mênh mông, nên mới được Nguyễn Huy Lượng tán dụng đến như vậy.Cây dó trên rừng có thứ vỏ để làm giấy rất tốt. Khi vỏ dó được bóc đem phơi khôchuyển về kinh thành Thăng Long, nó được lọc kỹ càng, thứ tốt để riêng, còn thứ xấuđể làm giấy xề. cho nên trong câu ca dao cũ mới kể: Con gái Kẻ Cót thì đi buônxề.Kẻ Cót là tên nôm của Yên Hoà xưa có tên Thượng Yên Quyết. Buôn xề là buôn loạigiấy xấu, giấy xề. Tuy vậy con gái Kẻ Cót lại xinh tươi chứ không như ai đó đùacợt dùng chữ xề như gái xề là chẳng đúng.Các cụ ở Bưởi khi nói về cái nghề tổ của làng mình đã cho rằng nghề làm giấy cótừ thời Lý Công Uẩn. Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ ban bổ khi Hoa Lư viết trêngiấy của làng này.Như trên đã nói, nghề làm giấy nói chung có ở vùng Bưởi, vùng Nghĩa Đô, Bác Ninh,phụ trách thông tin phường Bưởi nhắc đến nhiều nhất thôn Nghè, họ Lại, đọc mộtcâu ca dao cũ: Họ Lại làm giấy sắc vua. Họ Lại ở thôn Nghè. Tại thôn này, người tagiữ được tờ giấy sắc thời phong kiến vẽ mây rồng. Bác Ninh kể lai lịch thôn Nghè,làng Nghè:-Nghè đây không phải là ông nghè, ông trạng mà là nghề nghè giấy hay nện giấy.Ngày xưa chưa có máy ép thì khi đúc xong những tờ giấy trên khuôn, nhuộm xong,phơi khô xong, người ta xếp thành từng tập, mươi mười lăm rồ một, đặt trên phiếnđá phẳng, dùng chày mà nện cho thật kỹ, đến khi giấy mịn mặt mới thôi.Ra thế, có được những tờ giấy mịn, dai là nhờ giấy được nghè.Làm giấy thường thì những công đoạn không phức tạp lắm. Đáng chú ý là việc làmgiấy sắc. Đó là loại giấy đặc biệt. Các loại giấy thông thường có thể làm từ câygiang, cây nứa, bã mía... nhưng làm giấy sắc thì hoàn toàn phải dùng vỏ cây dó sạch,không pha tạp chút nguyên liệu nào khác để giấy không nát, bền và dai. Tờ giấy khi đãđúc từ khuôn ra đem phơi cho khô rồi nhuộm. Màu vàng của giấy sắc không quá sẫm.Người ta pha hoa hoè với phẩm hoa hiên, phẩm hồng. Hoa hoè phải đem rang. Phanhững thứ màu đó rồi đổ lẫn với nhau cho ra một màu chung để nhuộm giấy. Xongkhâu nhuộm thì đến khâu vẽ. Chất liệu vẽ là kim nhũ hoà với keo da trâu. Người vẽdùng bút lông vẽ hình long, ly, quy, phượng, mây, hoa...Những hình vẽ trên giấy sắc đãđược quy định rõ ràng, giấy sắc phong cho phẩm trật nào thì có vẽ hình ấy. Có hailoại giấy đặc biệt, một là giấy sắc và giấy lệnh. Giấy sắc phong các vị thần, các vị cóchức tước cao thì dùng giấy màu vàng còn giấy sắc thường thì dùng giấy lệnh.Các cụ làng giấy kể về thứ giấy đặc biệt thời phong kiến như sau:-Các vua nhà Nguyễn muốn có giấy sắc thì từ trong Huế lệnh cho Tổng đốc Hà Nội.Viên quan này bèn cho lính đến Nghĩa Đô bắt thợ tập trung làm giấy. Mỗi nhà làmgiấy đều có lính đóng tại đó để kiểm tra, xem xét. Nhà làm giấy khi bắt tay làm giấysắc phải dọn dẹp sạch sẽ, bàn thờ tổ phải có khói hương vì việc làm giấy sắc là việcvô cùng quan trọng theo lệnh vua. Giấy làm xong thì lính áp tải về dinh Tổng đốc,nhập kho rồi mới được trả tiền công.Những người chuyên làm giấy cũ vùng Bưởi ven Tây Hồ không còn nữa. Tuy nhiên,vẫn có nhà giữ lấy nghề tổ. Họ không làm giấy bản, giấy sắc nhưng vẫn làm mộtloại giấy mà hiện Hà Nội và các địa phương rất cần. Đó là mà người ta hay gọi nômna là giấy vệ sinh. Giấy này cũng đang được sản xuất nhiều và bán chạy lắm. Nhữngcuộn giấy màu vàng, màu đỏ, màu trắng được sản xuất từ các loại giấy phế liệu,hoặc những nguyên liệu sẵn có in nhãn hiệu các nhà sản xuất, mỗi cửa hàng ăn uống,mỗi gia đình cần đến ...