Hà Nội trong làn sóng phát triển ngành dịch vụ của các đô thị ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 0.00 B
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Qua việc nghiên cứu quá trình phát triển của các đô thị lớn ở CATBD, bài viết này chỉ ra tầm quan trọng của việc phát triển ngành dịch vụ đối với quá trình đô thị hóa và hội nhập quốc tế của Hà Nội. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hà Nội trong làn sóng phát triển ngành dịch vụ của các đô thị ở khu vực Châu Á - Thái Bình DươngHÀTH¶O HéI NỘI TRONG LÀNQUèC KHOA HäC SÓNGTÕ PHÁT TRIỂN Kû NIÖM NGÀNH 1000 DỊCH VỤ N¡M TH¡NG CỦA- Hμ LONG CÁCNéI ĐÔ THỊ... PH¸T TRIÓN BÒN V÷NG THñ §¤ Hμ NéI V¡N HIÕN, ANH HïNG, V× HOμ B×NH Hμ NéI TRONG LμN SãNG PH¸T TRIÓN NGμNH DÞCH Vô CñA C¸C §¤ THÞ ë KHU VùC CH¢U ¸ - TH¸I B×NH D¦¥NG PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn*Mở đầu Trong vòng 30 năm qua, quá trình đô thị hoá ở các thành phố lớn ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương (CATBD) đã được đẩy mạnh cùng với chính sách ưu tiên phát triểnngành dịch vụ của Chính quyền thành phố và Chính phủ Trung ương. Cũng chỉ trongkhoảng thời gian tương đối ngắn đó, rất nhiều đô thị lớn như Tokyo, Seoul, Đài Bắc,Hongkong, Singapore, Melbourne, Sydney v.v… đã phát triển bùng nổ, trong đó cónhững đô thị là hạt nhân của “các nền kinh tế công nghiệp hoá mới nổi” đã làm nên sựtăng trưởng kinh tế thần kỳ. Mặc dù là một thành phố có bề dày 1.000 năm văn hiến song xét về lĩnh vực pháttriển kinh tế thì Hà Nội vẫn còn ở sau nhiều đô thị trong khu vực. Qua việc nghiên cứuquá trình phát triển của các đô thị lớn ở CATBD, bài viết này chỉ ra tầm quan trọng củaviệc phát triển ngành dịch vụ đối với quá trình đô thị hoá và hội nhập quốc tế của Hà Nội.1. Làn sóng phát triển ngành dịch vụ của các đô thị ở CATBD Làn sóng này thể hiện qua một đặc điểm nổi bật là: nếu như các đô thị lớn ở phươngTây cho đến nay đã trải qua quá trình phát triển kinh tế một cách tuần tự, từ nông nghiệptới công nghiệp, rồi dịch vụ, thì nhiều thành phố ở CATBD lại rút ngắn quá trình côngnghiệp hoá dựa vào việc phát triển các ngành công nghiệp để chuyển sang phát triển cácngành dịch vụ. Nói một cách khác, những thành phố này đã nhanh chóng tiến hành “dịchvụ hoá,” chứ không trải qua bước phát triển tuần tự theo hình thức “hậu công nghiệp.” Ở đây, có thể nhận thấy hai khuynh hướng: Một là quá trình dịch vụ hoá của các đô thị diễn ra song song cùng với quá trình dịchvụ hoá của toàn nền kinh tế. Điển hình của trường hợp này là Singapore. Sau hai thập kỷ phát triển nhảy vọt, suythoái kinh tế diễn ra vào giữa thập kỷ 1980 đòi hỏi nước này phải đưa ra một chiến lượcphát triển mới. Nếu như trong những năm 1970, Singapore tập trung phát triển các ngành* Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. 883Nguyễn Hồng Sơncông nghiệp theo chính sách “công nghiệp hoá” truyền thống, thì sau năm 1985 nước nàychuyển sang khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là những ngành dịch vụmà Singapore có lợi thế cạnh tranh lớn, bao gồm các dịch vụ kinh doanh, vận tải, tàichính, giáo dục v.v… Do đó, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế ở Singapore đã diễn ra từgiữa những năm 1980, tạo nên nhiều thay đổi về tầng lớp xã hội và nghề nghiệp. Chínhphủ đã có những quyết định chính trị và chương trình định hướng lại các nguồn đầu tưcông cộng, cơ sở hạ tầng và hỗ trợ giáo dục nhằm bổ sung nguồn lao động cho xu thếnghề nghiệp mới hình thành trong các ngành dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng cao. Trước cả Singapore, ở Hongkong, chính quyền cũng đã có chính sách ưu tiên pháttriển ngành dịch vụ trong cấu trúc thành thị và kế hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên,Hongkong và Singapore là hai trường hợp tương đối ngoại lệ với tính chất là hai thànhphố bị hạn chế về không gian và tài nguyên thiên nhiên nên đã tạo ra sức ép phải pháttriển ngành dịch vụ lớn hơn so với các thành phố khác trong khu vực. Ở Nhật Bản, mặc dù Chính phủ Trung ương vẫn muốn duy trì vai trò quan trọngcủa sản xuất công nghiệp, trong thập kỷ 1980, ở các thành phố lớn như Tokyo, Yokohamavà Osaka đã diễn ra quá trình tái cấu trúc nền kinh tế thể hiện qua các chính sách ưu tiênsử dụng đất và cơ sở hạ tầng cho việc phát triển các ngành dịch vụ văn phòng, thươngmại và tài chính. Những kế hoạch quốc gia của Nhật Bản (như chính sách phát triển củaBộ Tài nguyên) cũng đã chỉ ra rằng việc phát triển các ngành dịch vụ tiên tiến sẽ tạo điềukiện cho sản xuất công nghiệp tăng trưởng mạnh, và bổ sung thiếu hụt nhân lực. Hai là quá trình dịch vụ hoá của các đô thị diễn ra khi quá trình công nghiệp hoá củatoàn nền kinh tế đòi hỏi cần những trung tâm dịch vụ phát triển. Điển hình của trường hợp này là Trung Quốc. Từ cuối những năm 1970, khi ĐặngTiểu Bình bắt tay vào thực hiện cải cách kinh tế, cho phép thành lập những Đặc khu kinhtế vào năm 1979 và 14 t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hà Nội trong làn sóng phát triển ngành dịch vụ của các đô thị ở khu vực Châu Á - Thái Bình DươngHÀTH¶O HéI NỘI TRONG LÀNQUèC KHOA HäC SÓNGTÕ PHÁT TRIỂN Kû NIÖM NGÀNH 1000 DỊCH VỤ N¡M TH¡NG CỦA- Hμ LONG CÁCNéI ĐÔ THỊ... PH¸T TRIÓN BÒN V÷NG THñ §¤ Hμ NéI V¡N HIÕN, ANH HïNG, V× HOμ B×NH Hμ NéI TRONG LμN SãNG PH¸T TRIÓN NGμNH DÞCH Vô CñA C¸C §¤ THÞ ë KHU VùC CH¢U ¸ - TH¸I B×NH D¦¥NG PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn*Mở đầu Trong vòng 30 năm qua, quá trình đô thị hoá ở các thành phố lớn ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương (CATBD) đã được đẩy mạnh cùng với chính sách ưu tiên phát triểnngành dịch vụ của Chính quyền thành phố và Chính phủ Trung ương. Cũng chỉ trongkhoảng thời gian tương đối ngắn đó, rất nhiều đô thị lớn như Tokyo, Seoul, Đài Bắc,Hongkong, Singapore, Melbourne, Sydney v.v… đã phát triển bùng nổ, trong đó cónhững đô thị là hạt nhân của “các nền kinh tế công nghiệp hoá mới nổi” đã làm nên sựtăng trưởng kinh tế thần kỳ. Mặc dù là một thành phố có bề dày 1.000 năm văn hiến song xét về lĩnh vực pháttriển kinh tế thì Hà Nội vẫn còn ở sau nhiều đô thị trong khu vực. Qua việc nghiên cứuquá trình phát triển của các đô thị lớn ở CATBD, bài viết này chỉ ra tầm quan trọng củaviệc phát triển ngành dịch vụ đối với quá trình đô thị hoá và hội nhập quốc tế của Hà Nội.1. Làn sóng phát triển ngành dịch vụ của các đô thị ở CATBD Làn sóng này thể hiện qua một đặc điểm nổi bật là: nếu như các đô thị lớn ở phươngTây cho đến nay đã trải qua quá trình phát triển kinh tế một cách tuần tự, từ nông nghiệptới công nghiệp, rồi dịch vụ, thì nhiều thành phố ở CATBD lại rút ngắn quá trình côngnghiệp hoá dựa vào việc phát triển các ngành công nghiệp để chuyển sang phát triển cácngành dịch vụ. Nói một cách khác, những thành phố này đã nhanh chóng tiến hành “dịchvụ hoá,” chứ không trải qua bước phát triển tuần tự theo hình thức “hậu công nghiệp.” Ở đây, có thể nhận thấy hai khuynh hướng: Một là quá trình dịch vụ hoá của các đô thị diễn ra song song cùng với quá trình dịchvụ hoá của toàn nền kinh tế. Điển hình của trường hợp này là Singapore. Sau hai thập kỷ phát triển nhảy vọt, suythoái kinh tế diễn ra vào giữa thập kỷ 1980 đòi hỏi nước này phải đưa ra một chiến lượcphát triển mới. Nếu như trong những năm 1970, Singapore tập trung phát triển các ngành* Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. 883Nguyễn Hồng Sơncông nghiệp theo chính sách “công nghiệp hoá” truyền thống, thì sau năm 1985 nước nàychuyển sang khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ, đặc biệt là những ngành dịch vụmà Singapore có lợi thế cạnh tranh lớn, bao gồm các dịch vụ kinh doanh, vận tải, tàichính, giáo dục v.v… Do đó, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế ở Singapore đã diễn ra từgiữa những năm 1980, tạo nên nhiều thay đổi về tầng lớp xã hội và nghề nghiệp. Chínhphủ đã có những quyết định chính trị và chương trình định hướng lại các nguồn đầu tưcông cộng, cơ sở hạ tầng và hỗ trợ giáo dục nhằm bổ sung nguồn lao động cho xu thếnghề nghiệp mới hình thành trong các ngành dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng cao. Trước cả Singapore, ở Hongkong, chính quyền cũng đã có chính sách ưu tiên pháttriển ngành dịch vụ trong cấu trúc thành thị và kế hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên,Hongkong và Singapore là hai trường hợp tương đối ngoại lệ với tính chất là hai thànhphố bị hạn chế về không gian và tài nguyên thiên nhiên nên đã tạo ra sức ép phải pháttriển ngành dịch vụ lớn hơn so với các thành phố khác trong khu vực. Ở Nhật Bản, mặc dù Chính phủ Trung ương vẫn muốn duy trì vai trò quan trọngcủa sản xuất công nghiệp, trong thập kỷ 1980, ở các thành phố lớn như Tokyo, Yokohamavà Osaka đã diễn ra quá trình tái cấu trúc nền kinh tế thể hiện qua các chính sách ưu tiênsử dụng đất và cơ sở hạ tầng cho việc phát triển các ngành dịch vụ văn phòng, thươngmại và tài chính. Những kế hoạch quốc gia của Nhật Bản (như chính sách phát triển củaBộ Tài nguyên) cũng đã chỉ ra rằng việc phát triển các ngành dịch vụ tiên tiến sẽ tạo điềukiện cho sản xuất công nghiệp tăng trưởng mạnh, và bổ sung thiếu hụt nhân lực. Hai là quá trình dịch vụ hoá của các đô thị diễn ra khi quá trình công nghiệp hoá củatoàn nền kinh tế đòi hỏi cần những trung tâm dịch vụ phát triển. Điển hình của trường hợp này là Trung Quốc. Từ cuối những năm 1970, khi ĐặngTiểu Bình bắt tay vào thực hiện cải cách kinh tế, cho phép thành lập những Đặc khu kinhtế vào năm 1979 và 14 t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển ngành dịch vụ Châu Á Thái Bình Dương Quá trình đô thị hóa Đô thị hóa Hội nhập quốc tế Quá trình đô thị hóa của Hà NộiGợi ý tài liệu liên quan:
-
35 trang 331 0 0
-
Hạ tầng xanh – giải pháp bền vững cho thoát nước đô thị
17 trang 231 1 0 -
Báo cáo Tác động của việc thu hồi đất Nông nghiệp
31 trang 193 0 0 -
Một số hạn chế trong chính sách thuế
3 trang 170 0 0 -
LUẬN VĂN: Thực trạng và nhưng giải pháp cho công tác quy hoạch sử dụng đất
29 trang 164 0 0 -
TTIỂU LUẬN ' CƠ SỞ QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC'
43 trang 158 0 0 -
Những khái niệm mở đầu Đô thị học: Phần 1 - Trương Quang Thao
193 trang 148 1 0 -
Điểm sáng phát triển nông nghiệp đô thị ở Hải Phòng
2 trang 122 0 0 -
Báo cáo Sự thành lập Công ty Đông Ấn Anh và những nỗ lực thâm nhập phương Đông trong thế kỷ XVII.
9 trang 103 0 0 -
Đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch đô thị tại thành phố Huế giai đoạn 1999–2019
12 trang 101 0 0