Từ sinh vật chiết ra các tế bào đơn dòng, rồi dùng chính kỹ thuật di truyền, nhân lên và cho chúng biến đổi gen, chiết ra các kháng thể đơn dòng hay các chất có hiệu quả chữa bệnh. Chúng được gọi là các thuốc sinh học thế hệ mới (SHTHM).Những ưu thế... Thuốc SHTHM có ưu thế ngăn chặn tận gốc nguyên nhân bệnh, dung nạp tốt, hiệu quả khá cao, tiện dùng. Ví dụ: Các yếu tố gây miễn dịch như các cytoki TNF (Tumo Necrosis Factor = yếu tố hoại tử), interleukin-1 tăng quá mức,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hai mặt của thuốc sinh học thế hệ mới Hai mặt của thuốc sinh học thế hệ mới Cơ chế hoạt động củah remicade 1. Từ sinh vật chiết ra các tế bào đơn dòng, rồi dùng chính kỹ thuật ditruyền, nhân lên và cho chúng biến đổi gen, chiết ra các kháng thể đơn dònghay các chất có hiệu quả chữa bệnh. Chúng được gọi là các thuốc sinh học thếhệ mới (SHTHM). Những ưu thế... Thuốc SHTHM có ưu thế ngăn chặn tận gốc nguyên nhân bệnh, dung nạptốt, hiệu quả khá cao, tiện dùng. Ví dụ: Các yếu tố gây miễn dịch như các cytokiTNF (Tumo Necrosis Factor = yếu tố hoại tử), interleukin-1 tăng quá mức, dẫn tớisản xuất dư thừa kháng thể và chính các kháng thể dư thừa đó quay lại gây hại chocơ thể (gây viêm đau, thoái hóa khớp). Đó là nguyên nhân gây ra các bệnh tự miễnnhư bệnh viêm khớp dạng thấp. Các thuốc SHTHM humia, remicade, enbrel khóayếu tố hoại tử (TNF keneret) và khóa interleukin-1 lại nên làm giảm đau, giảmviêm, đặc biệt nhất là làm ngừng sự thoái hóa khớp. Cơ thể tiết ra quá nhiều cytokin và theo đó tiết ra nhiều kháng thể, chínhkháng thể thừa này lại gây ra bệnh ung thư bạch cầu không Hodgkin (viết tắt NHL= No Hodgkin Lympho). Trước đây dùng methotrexat chữa thường phải mấtkhoảng 6 tháng (chưa kể còn điều trị nhắc lại) hay bị rụng tóc, buồn nôn, mệt mỏi,tăng mẫn cảm với các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt với người già (cơ thể suy yếu,có khi không dung nạp được) và cũng khó xử lý với người kháng với thuốc. Dùngthuốc SHTHM rittuxan (rituximat) chỉ cần tiêm 4 mũi trong 22 ngày cho kết quảrất khả quan, làm cho khối u thu nhỏ lại, chất lượng cuộc sống tăng lên. Phối hợprittuxan và hóa trị liệu làm tăng khả năng sống lên 23%, làm giảm tới 60% sốngười không đáp ứng, so với nhóm chỉ dùng đơn thuần hóa trị liệu. ... Và khiếm khuyết Các thuốc SHTHM mới được thử nghiệm chủ yếu ở phòng thí nghiệm.Việc thử nghiệm trên người tình nguyện thường không nhiều. Nhưng thuốcSHTHM thường dùng cho các bệnh khó hoặc bệnh chưa có cách chữa nên sau mộtthời gian thử nghiệm, các cơ quan quản lý vẫn cho phép dùng và thu thập thêm cácthông tin sau này. Do vậy có khá nhiều thuốc sau khi lưu hành mới tập hợp đượccác tác dụng phụ. Một số trong các tác dụng phụ đó, có khi là nghiêm trọng, khóbỏ qua. Có thể nêu lên một số thí dụ ngay từ trong các thuốc kể trên. Thuốc SHTHM chữa viêm khớp dạng thấp (humia, remicade, enbrel,keneret) ức chế khả năng miễn dịch, từ đó làm giảm sức đề kháng của cơ thể đốivới các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, siêu vi làm cho cơ thể dễ bị bệnh hoặc cókhi làm cho bệnh đang phục hồi bùng phát trở lại nặng thêm (như bệnh lao phổi). Dùng thuốc chống ung thư rittuxan này trong một thời gian dài (để chữathấp khớp) sẽ bị lupus ban đỏ hệ thống, nguy hiểm hơn là gây bệnh lý chất trắngnão tiến triển viết tắt là PML (progresive multiforal leucoencephalopathy) do siêuvi. Khi nghiên cứu lại chính các thử nghiệm xin cấp phép lưu hành (2001),Hiệp hội tim Mỹ chỉ ra rằng thuốc chữa suy tim natrecor làm suy giảm chức năngthận (40-50% người dùng), trong số người dùng bị suy tim sung huyết, việc giảmchức năng thận này còn làm tăng thêm tỷ lệ tử vong. Một số thuốc chữa suy timnặng thường làm suy giảm chức năng thận hoặc rối loạn điện giải. Tuy nhiên, theoHiệp hội tim Hoa Kỳ, natrecor có tác dụng phụ ở mức cao, chỉ dùng khi không cóthuốc nào khác. Nhiều nhà khoa học cũng lo lắng thuốc SHTHM sẽ làm tăng thêm các bệnhnão do siêu vi. Trên thực tế, đã ghi nhận được thuốc SHTHM chữa bệnh vẩy nếnraptica đã gây ra bệnh. Không ít người cho rằng thuốc SHTHM là chuyển đổi gen sinh vật, có tính“gần gũi” với người, ít gây độc. Thật ra, không như thế. Vụ ngộ độc kinh hoàngkhi thử lâm sàng thuốc SHTHM ký hiệu TGN1412 (năm 2006) là một ví dụ. TheoCông ty chế tạo thuốc sinh học Đức Tegenero, thuốc đã được thử trên súc vật đúngtrình tự. Nhưng khi đem thử lâm sàng tại Anh thì ngay sau khi tiêm mũi đầu, tất cả6 người thử như cỗ bài domino, bị ngã gục, cơ thể bị nóng rực lên, điên cuồng, tựxé rách quần áo, cào cấu, tự đạp vào đầu, vừa quay cuồng vừa nôn. Bác sĩ theo dõiviệc chữa trị các nạn nhân cho biết “Đây có thể phản ứng miễn dịch. Không thể dựđoán nạn nhân có thể sống hay chết, nếu sống cũng không biết sẽ ra sao?”. Đếnnay, vẫn chưa hiểu rõ nguyên nhân. Lời kết Một nghiên cứu của các nhà khoa học Hà Lan cho biết: từ tháng 1/1995 đếntháng 6/2007, thuốc SHTHM được cho lưu hành tại Mỹ 136 loại, tại châu Âu 105loại (phần lớn trùng lặp); trong số đó có 41 loại (xấp xỉ 24%) bị cảnh báo về độ antoàn. Hiện chưa có một nghiên cứu nào so sánh độ an toàn (tỷ lệ, mức độ tác dụngphụ) giữa thuốc SHTHM và các thuốc hóa học hay thuốc sinh học thế hệ cũ. Consố trên vì thế không bao hàm ý nghĩa so sánh nhưng dĩ nhiên cho biết sự chưahoàn hảo của thuốc SHTHM. Chúng có những lợi ích tuyệt vời, một số đã tạo ...