Vào những năm đầu thế kỷ XX, bộ môn sân khấu nổi bật nhất ở Nam bộ vẫn là hát bội. Có người cho rằng thời điểm nây, hát bội ở Nam kỳ đă có cải biến nhiều do ảnh hưởng từ tuồng hát Quảng Ðông, hát Tiều và đó có thể là một cách những lưu dân ngưới Việt tiếp thu được khi họ cùng đi theo các nhóm di thần "bài Mãn, phục Minh" vào phía Ðồng Nai. Mỹ Tho, Hà Tiên và những khu vực khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Cũng vào những năm đầu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hát Bội & Lý Nam Bộ
Hát Bội & Lý Nam Bộ
Vào những năm đầu thế kỷ XX, bộ môn sân khấu nổi bật nhất ở Nam bộ vẫn là hát
bội. Có người cho rằng thời điểm nây, hát bội ở Nam kỳ đă có cải biến nhiều do ảnh
hưởng từ tuồng hát Quảng Ðông, hát Tiều và đó có thể là một cách những lưu dân ngưới
Việt tiếp thu được khi họ cùng đi theo các nhóm di thần bài Mãn, phục Minh vào phía
Ðồng Nai. Mỹ Tho, Hà Tiên và những khu vực khác ở đồng bằng sông Cửu Long.
Cũng vào những năm đầu thế kỷ XX ban hát bội thường kéo tới các địa phương trình
diễn khi nơi đó có người đứng ra bao chầu như những điền chủ , thân hào, thương gia
giàu có. Rạp hát mở cửa tự do cho mọi người vào xem. Dĩ nhiên, các hạng ghế đầu -
cạnh sân khấu - đều dành cho những người có công đóng góp đáng kể hay hàng chức
sắc. Ban hát tổ chức trong sân đình và căng lều (rạp) cốt yếu che mưa, nắng cho nghệ
nhân. Lệ bán vé vào cửa chỉ xuất hiện khi thực dân Pháp xâm chiếm là đồn trú tại một số
tỉnh Nam kỳ. Vào lúc này, những đồng tiền kẽm được ném lên sân khấu có mục đích tán
thưởng các giây phút nghệ nhân biểu diễn quá nhập vai, xuất thần. Sau này, còn thêm lệ
ném quạt có kẹp những tấm giấy bạc.
Về tuồng tích, phía Hậu Giang gần như chỉ quen thuộc với loại tuồng Tàu (như Trương
Phi thủ Cổ thành, Tống tửu Ðơn Hùng Tín...), trong khi miệt Ðồng Nai, Bến Nghé
thích tuồng San Hậu và đây cũng là một dạng tuồng Tổ... Như đã nói, vào thời kỳ
này, tại Nam kỳ, các vùng sâu của Rạch Giá, ven U Minh nạn cọp, sấu hoành hành dữ
dội. Ở những nơi chưa có đình làng, đồng bào khẩn hoang cho cắm cận bờ sông một
vòng rào, bên trong đặt sân khấu có bục cao trên mặt nước. Người xem sẽ bơi xuồng vào
trong vòng rào, ngồi trên xuồng thưởng thức. Cọp ven rừng có tới được mé sông chỉ biết
nhìn những ánh đuốc bập bùng. Loài cá sấu thích thịt người cũng đành ngóng mỏ ngoài
vòng rào chứ không làm hại ai được.
Bên cạnh hát bội, loại nhạc cung đình do nho sĩ, nhạc công ở Trung Kỳ đưa vào cũng
được dạy cho con cái những gia đình khá giả. Mang tên nhạc cung đình nhưng nó in đậm
chất dân gian của người xứ Huế, có thể từ đời Nguyễn Phúc Chu, nền kinh tế thị trường
nơi đây đã manh nha với nơi sầm uất nhất có thể kể là cảng Hội An. Một số bài bản khác
cũng theo dòng nhạc cung đình đổ vào phía Nam là nhạc dùng trong dịp tế thần hay tang
ma, gọi là nhạc lễ. Người ta đồn đại thời điểm này, khoảng năm 1885, nhạc quan nhà
Nguyễn là Nguyễn Quang Ðạt từng phiêu bạt từ Huế vào Sài Gòn bây giờ. Ông tìm đến
Cần Ðước, Long An và được dân địa phương sủng ái mời ở lại dạy nhạc lễ. Nguyễn
Quang Ðạt đã rà soát bài bản sẵn có tại địa phương, nâng nó lên một cấp. Cho tới nay,
người dân Nam bộ, nhất là ở Long An còn tôn ông là Hậu Tổ của nhạc tài tử đặt bài vị
thờ cúng ở đình Vạn Phước (Cần Ðước). Những năm đầu thế kỷ XX, theo dòng nhạc tài
tử (chỉnh lý từ nhạc cung đình Huế) mới của Nguyễn Quang Ðạt, được phổ biến rộng dần
khắp Nam kỳ. Nhạc tài tử có nghĩa là đàn với bạn tri âm, tri kỷ nhằm di dưỡng tánh
tình hoặc đơn thuần tìm phút giây thư giãn sau một ngày đồng áng, khẩn hoang mệt
nhọc. Theo tác giả Trần Văn Khải, người soạn sách Nghệ thuật sân khấu Việt Nam (ấn
hành ở Sài Gòn năm 1966), trong nhạc tài tử, giọng Oán là giọng đặc trưng miền Nam,
đờn Oán thường dùng dây Hổ Tư (dây Chinh) và dây Tố Lan. Hai dây này đều do nghệ
nhân miền Nam sáng chế do bài Oán đầu tiên là bài Tứ Ðại. Giọng Oán hơi bi thương
nhưng trong nó nổi cộm chất trang nghiêm, hùng dũng. Người sáng chế bản Tứ Ðại, rất
tiếc không ai còn nhớ tên.
Khoảng năm 1905, thực dân Pháp xâm lược nước ta và đã cho khai trương nhà hát Tây
với kiến trúc lạ, có nơi bố trí chỗ ngồi cho người xem và điễn tuồng ca nhạc kịch kéo dài
tối đa vài ba giờ đồng hồ. Khi diễn tuồng có bài trí cảnh nhà cửa, núi non, vườn tược, bàn
ghế... khá sinh động. Nhiều người có dịp đi xem hát Tây, thấy gọn gàng, khoa học hơn
hẳn loại hình hát bội nên đã nghĩ tới việc cải cách hát bội cho hợp thời. Trước nhất là
hình thức, cấu trúc vở tuồng sao cho mô phỏng được những tuồng tích người Pháp đã
diễn và sau là thể hiện nó nhưng với nhạc tài tử cũ . Những lối thoát cho nhạc tài tử được
mở ra như sau: tử chỗ chỉ ngồi nghiêm nghị để hát, nghệ nhân tiến tới hát có điệu bộ
(diễn), gọi là ca ra bộ là tiền thân của cải lương sau này.
Tác giả Vương Hồng Sển trong một nghiên cứu của mình đã xác nhận mốc cụ thể ra đời
của cải lương là đêm 11/ 11/1918, là một cuộc hát lạc quyên nhân sự kiện Hoàng tử Cảnh
được Bá Ða Lộc đưa sang Pháp làm con tin. Tuy nhiên trước đó, vẫn theo Vương Hồng
Sển, hát cải lương cũng đã xuất hiện ở các vùng như Vĩnh Long, Mỹ Tho... với những
sân khấu, phông màn, đề-co-phít hay souffler (người nhắc tuồng). Dàn nhạc cải lương
được giấu sau phông và có thiết kế loại màn từ từ hạ xuống sau khi dứt một cảnh trí hay
bản hát (theo hồi ký Năm mươi năm mê hát của Vương Hồng Sển).
Xin trích lược một đoạn sau trong hồi kỳ nêu trên của ông, nói về sự ra đời và bối cảnh ra
đời của sân khấu cải lương: ... Buổi sơ khởi ...