Danh mục

HỆ THỐNG BỔ THỂ (Kỳ 7)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 171.43 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thụ thể type 3 và 4 dành cho bổ thể (CR3 và CR4) Các thụ thể type 3 và 4 dành cho bổ thể gắn chủ yếu vào sản phẩm phân rã của C3b là C3bi. CR3 và CR4 có ở trên các tế bào mono, đại thực bào, bạch cầu trung tính, tế bào NK và một số tiểu quần thể tế bào T. Các thụ thể này là các dị dimer chứa 2 glycoprotein (1 chuỗi ( và một chuỗi () liên kết không đồng hoá trị với nhau. CR3 còn gọi là MAC-1, CR4 còn được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỆ THỐNG BỔ THỂ (Kỳ 7) HỆ THỐNG BỔ THỂ (Kỳ 7) Thụ thể type 3 và 4 dành cho bổ thể (CR3 và CR4) Các thụ thể type 3 và 4 dành cho bổ thể gắn chủ yếu vào sản phẩm phân rãcủa C3b là C3bi. CR3 và CR4 có ở trên các tế bào mono, đại thực bào, bạch cầutrung tính, tế bào NK và một số tiểu quần thể tế bào T. Các thụ thể này là các dịdimer chứa 2 glycoprotein (1 chuỗi ( và một chuỗi () liên kết không đồng hoá trịvới nhau. CR3 còn gọi là MAC-1, CR4 còn được gọi là p150,95. Cả hai đều thuộchọ thụ thể dành cho intergrin cùng với LFA-1p; các thụ thể này thường gắn vàocác phân tử kết dính tế bào. Mỗi một thụ thể dành cho intergrin có một chuỗi (riêng nhưng có chuỗi ( chung. Chuỗi ( của CR3 và CR4 có thể gắn vào C3bi. Mộtsố bằng chứng còn cho thấy rằng CR3 còn có thể gắn được vào các phân tử kếtdính liên tế bào (ICAMs) và có thể thúc đẩy quá trình thoát mạch của bạch cầutrung tính từ mao mạch vào khe kẽ mô trong quá trình viêm. Sự gắn của các hạt đãphủ bổ thể vào CR3 châm ngòi cho quá trình thực bào bởi các tế bào làm nhiệm vụthực bào. Các thụ thể dành cho C3a, C4a và C5a C3a, C4a, C5a là các mảnh bổ thể có trọng lượng phân tử thấp có khả năngkhuếch tán ra khỏi vị trí hoạt hoá bổ thể. Các thụ thể dành cho các mảnh này có ởtrên các tế bào bạch cầu ái kiềm, tế bào mast và các bạch cầu hạt . Sự gắn của C3a,C4a và C5a vào các thụ thể dành cho chúng trên các tế bào mast hoặc các bạch cầuái kiềm làm cho các tế bào này thoát hạt giải phóng ra các chất trung gian hoá họccó hoạt động dược lý. Vai trò sinh học của bổ thể Bổ thể có vai trò như một thành phần trung gian quan trọng của đáp ứng thểdịch bằng cách khuếch đại đáp ứng lên và chuyển nó thành các cơ chế đề khánghữu hiệu để phá huỷ các vi sinh vật và các virus xâm nhập vào cơ thể. Tan tế bào Phức hợp tấn công màng được hình thành trong quá trình hoạt hoá bổ thểcó khả năng làm tan nhiều loài vi sinh vật, các virus, hồng cầu và các tế bào cónhân. Vì quá trình hoạt hoá bổ thể theo con đường không cổ điển thường xuất hiệnmà không cần phải có sự tương tác của kháng nguyên và kháng thể ban đầu, dovậy con đường này có vai trò như một hệ thống tự nhiên quan trọng trong đềkháng không đặc hiệu chống lại nhiễm các vi sinh vật. Yêu cầu cần phải có tươngtác ban đầu của kháng nguyên với kháng thể để hoạt hoá bổ thể theo con đường cổđiển bổ xung vào hệ thống đề kháng tự nhiên không đặc hiệu của con đườngkhông cổ điển một cơ chế đề kháng đặc hiệu hơn. Không ít thì nhiều cuốn sách này cũng đã đề cập đến vai trò của đáp ứngmiễn dịch qua trung gian tế bào trong đề kháng của túc chủ chống lại nhiễm virus.Tuy nhiên kháng thể và bổ thể lại đóng vai trò trong đề kháng chống virus vàthường là cực kỳ quan trọng trong việc kiềm chế sự lan rộng của virus trong thờikỳ nhiễm cấp tính và ngăn ngừa tái nhiễm. Hầu hết - hy vọng là tất cả - các viruscó vỏ đều nhậy cảm với hiện tượng tan tế bào nhờ bổ thể. Vỏ của virus hầu hết cónguồn gốc từ màng nguyên sinh chất của tế bào túc chủ bị nhiễm virus và vì thế nódễ bị hình thành các lỗ do phức hợp tấn công màng. Các virus gây bệnh bị tiêu huỷbằng cách tan tế bào do bổ thể gồm có các virus herpes, các virus myxo(myxovirusses), paramyxo (paramyxoviruses) và các virus retro (retroviruses). Hệ thống bổ thường rất hiệu quả trong việc làm tan các vi khuẩn gram âm.Ngược lại, các vi khuẩn grâm dương thường kháng lại hiện tượng này vì chúng cómột lớp peptidoglycan ở thành của chúng, lớp này có tác dụng ngăn cản khôngcho phức hợp tấn công màng cài vào màng trong của vi khuẩn. Một vài vi khuẩngram âm cũng có thể kháng lại hiện tượng tan tế bào bởi bổ thể, các trường hợpnày thường có liên quan đến độc lực của vi sinh vật. Trường hợp Escherichia colivà Salmonella kháng lại bổ thể thường liên quan với phân type vi khuẩn trơn, cáctype này có đặc điểm là có các chuỗi bên dài có bản chất là các polysaccharidetrong thành phần lipopoly-saccharitde (LPS) thành tế bào vi khuẩn. Người ta chorằng các chủng kháng lại bổ thể có lượng PLS thành tế bào tăng do vậy đã ngănngừa được sự cắm của phức hợp tấn công màng vào màng vi khuẩn và vì thế màphức hợp này bị giải phóng ra khỏi màng chứ không tạo thành các lỗ. Các chủngNeisseria gonorrhoeae kháng lại hiện tượng giết chết thông qua bổ thể có liên quanđến các trường hợp nhiễm gnococcus rải rác ở người. Có một số bằng chứng chothấy các protein màng của các chủng Neisseria tương tác không đồng hoá trị vớiphức hợp tấn công màng và cản trở sự cài cắm của nó vào màng ngoài của tế bào.Các ví dụ về vi khuẩn gram âm kháng lại hiện tượng tan tế bào do bổ thể này chỉlà ngoại lệ còn hầu hết các vi khuẩn gram âm đều nhậy cảm với hiện tượng này. Các tế bào có nhân có xu hướng kháng lại hiện tượng tan tế bào do bổ thểhơn là các tế bào hồng cầu. Ðể làm tan được các tế bào có nh ...

Tài liệu được xem nhiều: