Hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các hình thức nuôi tôm thẻ chân trắng tại Nghệ An
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 431.19 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành điều tra, thu mẫu và phỏng vấn 120 hộ nuôi trong tổng số 925 hộ thuộc 5 huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Cửa Lò. Kết quả cho thấy hiện trạng kỹ thuật: Hình thức nuôi chủ yếu bán thâm canh chiếm 53,3%, diện tích ao dao động từ 0,3 - 1,5ha trung bình là 0,58 ± 0,01ha có hình dạng chữ nhật, độ sâu trung bình của các ao nuôi tôm là 1,43 ± 0,02m (khoảng dao động từ 0,6 - 1,8m), chất đáy ao nuôi bùn cát chiếm tới 69,2%.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các hình thức nuôi tôm thẻ chân trắng tại Nghệ An Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2014 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC HÌNH THỨC NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TẠI NGHỆ AN THE ASSESSMENT OF TECHNICAL AND ECONOMIC EFFICIENCY OF WHITELEG SHRIMP (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) CULTURE MODEL IN NGHE AN PROVINCE Đinh Thị Hằng1, Lại Văn Hùng2 Ngày nhận bài: 30/7/2013; Ngày phản biện thông qua: 19/9/2014; Ngày duyệt đăng: 01/12/2014 TÓM TẮT Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm tại Nghệ An giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển ngành Thủy sản của tỉnh. Điều tra hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm được thực hiện trong thời gian từ 1/2010 - 6/2010. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành điều tra, thu mẫu và phỏng vấn 120 hộ nuôi trong tổng số 925 hộ thuộc 5 huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Cửa Lò. Kết quả cho thấy hiện trạng kỹ thuật: Hình thức nuôi chủ yếu bán thâm canh chiếm 53,3%, diện tích ao dao động từ 0,3 - 1,5ha trung bình là 0,58 ± 0,01ha có hình dạng chữ nhật, độ sâu trung bình của các ao nuôi tôm là 1,43 ± 0,02m (khoảng dao động từ 0,6 - 1,8m), chất đáy ao nuôi bùn cát chiếm tới 69,2%. Việc cải tạo ao nuôi đã được người dân chú trọng, đặc biệt là hình thức bán thâm canh và thâm canh. Lợi nhuận thu được từ các hình thức cũng khác nhau và tăng dần từ hình thức quảng canh cải tiến đến hình thức nuôi thâm canh với hình thức quảng canh cải tiến là là 54,4 triệu đồng; bán thâm canh là 212,8 triệu đồng và thâm canh là 267,2 triệu đồng. Mặt khác, nghề nuôi tôm thẻ chân trắng cũng góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp liên quan đến kỹ thuật, quy hoạch và chính sách nhằm phát triển nghề nuôi tôm he chân trắng của tỉnh theo hướng bền vững. Từ khóa: hiệu quả, kinh tế, xã hội, tôm thẻ chân trắng ABSTRACT Commercial farming of white leg shrimp in Nghe An plays an important role in the development strategy of the fisheries sector in the province. An investigation of the current status of techniques and economic efficiency used in whiteleg shrimp farming was carried out during January to June 2010. In this study, we conducted a survey, sampling and interviewing 120 households out of 925 households in Quynh Luu, Dien Chau, Nghi Loc districts, Vinh city and Cua Lo town. The results showed that semi-intensive farming is mainly practiced, accounted for 53.3 %, pond area ranged from 0.3 to 1.5ha with an average area of 0.58 ± 0.01ha per pond, ponds were rectangular shape with the average depth of 1.43 ± 0.015m (ranging from 0.6 to 1.8m), pond bottom with muddy sand accounted for 69.2%. Pond preparation after each culture crop was focused by farmers, especially in forms of semi-intensive and intensive farming. Profits gained was various among culture models, gradual increasing from improved extensive to intensive farming models. Profits gained in improved extensive, semi-intensive and intensive models of culture were 54.4, 212.8 and 267.2 million VND, respectively. Farming of white leg shrimp also created jobs, generated incomesand improved the efficiency of land use. The study also proposes a number of solutions related to culture techniques, planning and development policies for farming of the white leg shrimp in the province in a sustainable way . Keywords: efficiency, economy, society, white leg shrimp 1 2 Đinh Thị Hằng: Cao học Nuôi trồng Thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 118 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei hoặc Penaeus vannamei) hiện nay đang nuôi ở nước ta nói chung và Nghệ An nói riêng là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ Châu Mỹ; tôm phát triển tốt cho năng suất cao, góp phần đa dạng hoá đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu. Nghệ An là địa phương có nghề nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển tương đối nhanh với diện tích năm 2007 chỉ có 54 ha thì đến năm 2010 đã lên đến 911 ha, sản lượng 8.083 tấn, năng suất bình quân 8,8 tấn/ha/vụ [6,8,10]. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Nghệ An tập trung tại 5 huyện chính bao gồm: huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Cửa Lò và Thành phố Vinh. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn đang còn mới, chưa có vùng quy hoạch nuôi cụ thể, tình hình bệnh vẫn thường xuyên xảy ra vì vậy ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất [11]. Xuất phát từ thực nghiên cứu nhằm đánh giá hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả nuôi tôm thẻ chân trắng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp để nghề nuôi tôm thẻ chân trắng Nghệ An phát triển theo hướng bền vững. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/01/2010 đến 6/2010 tại các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng và các thành phần khác có liên quan 5 huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò và Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Số liệu thứ cấp về tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm được thu từ Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghệ An, Chi cục Nuôi trồng thủy sản Nghệ An, Cục Thống kê Nghệ An, Ủy ban nhân dân 5 huyện ven biển, Ủy ban nhân dân các xã có diện tích nuôi tôm. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu dựa trên bộ câu hỏi đã được chuẩn hóa với mục đích nghiên cứu [13]. Số hộ nuôi trên địa bàn tỉnh là (925 hộ) căn cứ trên báo cáo của Chi cục Nuôi trồng thủy sản Nghệ An và các phòng nông nghiệp/kinh tế các huyện, thành, thị. Tổng số mẫu điều tra 120/925 mẫu được phân bổ cho mỗi huyện lần lượt là Quỳnh Lưu (54/350), Diễn Châu (24/220), Nghi Lộc (20/200), thị xã Cửa Lò (2/2), thành phố Vinh (20/154). Những thông tin chính được thu thập gồm: Hình thức nuôi, hệ thống công trình nuôi, mùa vụ nuôi, chuẩn bị ao nuô ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của các hình thức nuôi tôm thẻ chân trắng tại Nghệ An Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2014 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC HÌNH THỨC NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TẠI NGHỆ AN THE ASSESSMENT OF TECHNICAL AND ECONOMIC EFFICIENCY OF WHITELEG SHRIMP (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) CULTURE MODEL IN NGHE AN PROVINCE Đinh Thị Hằng1, Lại Văn Hùng2 Ngày nhận bài: 30/7/2013; Ngày phản biện thông qua: 19/9/2014; Ngày duyệt đăng: 01/12/2014 TÓM TẮT Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm tại Nghệ An giữ vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển ngành Thủy sản của tỉnh. Điều tra hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm được thực hiện trong thời gian từ 1/2010 - 6/2010. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành điều tra, thu mẫu và phỏng vấn 120 hộ nuôi trong tổng số 925 hộ thuộc 5 huyện: Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Thành phố Vinh và Cửa Lò. Kết quả cho thấy hiện trạng kỹ thuật: Hình thức nuôi chủ yếu bán thâm canh chiếm 53,3%, diện tích ao dao động từ 0,3 - 1,5ha trung bình là 0,58 ± 0,01ha có hình dạng chữ nhật, độ sâu trung bình của các ao nuôi tôm là 1,43 ± 0,02m (khoảng dao động từ 0,6 - 1,8m), chất đáy ao nuôi bùn cát chiếm tới 69,2%. Việc cải tạo ao nuôi đã được người dân chú trọng, đặc biệt là hình thức bán thâm canh và thâm canh. Lợi nhuận thu được từ các hình thức cũng khác nhau và tăng dần từ hình thức quảng canh cải tiến đến hình thức nuôi thâm canh với hình thức quảng canh cải tiến là là 54,4 triệu đồng; bán thâm canh là 212,8 triệu đồng và thâm canh là 267,2 triệu đồng. Mặt khác, nghề nuôi tôm thẻ chân trắng cũng góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp liên quan đến kỹ thuật, quy hoạch và chính sách nhằm phát triển nghề nuôi tôm he chân trắng của tỉnh theo hướng bền vững. Từ khóa: hiệu quả, kinh tế, xã hội, tôm thẻ chân trắng ABSTRACT Commercial farming of white leg shrimp in Nghe An plays an important role in the development strategy of the fisheries sector in the province. An investigation of the current status of techniques and economic efficiency used in whiteleg shrimp farming was carried out during January to June 2010. In this study, we conducted a survey, sampling and interviewing 120 households out of 925 households in Quynh Luu, Dien Chau, Nghi Loc districts, Vinh city and Cua Lo town. The results showed that semi-intensive farming is mainly practiced, accounted for 53.3 %, pond area ranged from 0.3 to 1.5ha with an average area of 0.58 ± 0.01ha per pond, ponds were rectangular shape with the average depth of 1.43 ± 0.015m (ranging from 0.6 to 1.8m), pond bottom with muddy sand accounted for 69.2%. Pond preparation after each culture crop was focused by farmers, especially in forms of semi-intensive and intensive farming. Profits gained was various among culture models, gradual increasing from improved extensive to intensive farming models. Profits gained in improved extensive, semi-intensive and intensive models of culture were 54.4, 212.8 and 267.2 million VND, respectively. Farming of white leg shrimp also created jobs, generated incomesand improved the efficiency of land use. The study also proposes a number of solutions related to culture techniques, planning and development policies for farming of the white leg shrimp in the province in a sustainable way . Keywords: efficiency, economy, society, white leg shrimp 1 2 Đinh Thị Hằng: Cao học Nuôi trồng Thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang PGS.TS. Lại Văn Hùng: Viện Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 118 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản I. ĐẶT VẤN ĐỀ Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei hoặc Penaeus vannamei) hiện nay đang nuôi ở nước ta nói chung và Nghệ An nói riêng là đối tượng nhập nội, có nguồn gốc từ Châu Mỹ; tôm phát triển tốt cho năng suất cao, góp phần đa dạng hoá đối tượng nuôi và sản phẩm xuất khẩu. Nghệ An là địa phương có nghề nuôi tôm thẻ chân trắng phát triển tương đối nhanh với diện tích năm 2007 chỉ có 54 ha thì đến năm 2010 đã lên đến 911 ha, sản lượng 8.083 tấn, năng suất bình quân 8,8 tấn/ha/vụ [6,8,10]. Nghề nuôi tôm thẻ chân trắng ở Nghệ An tập trung tại 5 huyện chính bao gồm: huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Cửa Lò và Thành phố Vinh. Tuy nhiên, nghề nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh Nghệ An vẫn đang còn mới, chưa có vùng quy hoạch nuôi cụ thể, tình hình bệnh vẫn thường xuyên xảy ra vì vậy ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất [11]. Xuất phát từ thực nghiên cứu nhằm đánh giá hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả nuôi tôm thẻ chân trắng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp để nghề nuôi tôm thẻ chân trắng Nghệ An phát triển theo hướng bền vững. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/01/2010 đến 6/2010 tại các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng và các thành phần khác có liên quan 5 huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò và Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An. Số liệu thứ cấp về tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm được thu từ Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghệ An, Chi cục Nuôi trồng thủy sản Nghệ An, Cục Thống kê Nghệ An, Ủy ban nhân dân 5 huyện ven biển, Ủy ban nhân dân các xã có diện tích nuôi tôm. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương pháp điều tra qua phiếu dựa trên bộ câu hỏi đã được chuẩn hóa với mục đích nghiên cứu [13]. Số hộ nuôi trên địa bàn tỉnh là (925 hộ) căn cứ trên báo cáo của Chi cục Nuôi trồng thủy sản Nghệ An và các phòng nông nghiệp/kinh tế các huyện, thành, thị. Tổng số mẫu điều tra 120/925 mẫu được phân bổ cho mỗi huyện lần lượt là Quỳnh Lưu (54/350), Diễn Châu (24/220), Nghi Lộc (20/200), thị xã Cửa Lò (2/2), thành phố Vinh (20/154). Những thông tin chính được thu thập gồm: Hình thức nuôi, hệ thống công trình nuôi, mùa vụ nuôi, chuẩn bị ao nuô ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hiện trạng kỹ thuật Hiệu quả kinh tế Hình thức nuôi tôm thẻ chân trắng Tôm thẻ chân trắng Tỉnh Nghệ AnTài liệu liên quan:
-
13 trang 233 0 0
-
So sánh hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của mô hình luân canh Artemia – tôm và chuyên canh
10 trang 159 0 0 -
Quyết định số 71/2012/QĐ-UBND
3 trang 85 0 0 -
Giải pháp tăng trưởng xanh về hiệu quả kinh tế trong phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Long An
15 trang 82 0 0 -
Quyết định số 73/2012/QĐ-UBND
8 trang 76 0 0 -
11 trang 70 0 0
-
Báo cáo chuyên đề: Quy hoạch vùng nuôi tôm thẻ chân trắng tại Tp. HCM đến năm 2020 tầm nhìn 2025
82 trang 62 0 0 -
11 trang 62 0 0
-
8 trang 49 0 0
-
Báo cáo dự án: Đầu tư xây dựng khách sạn 3 sao Phú Nhuận
22 trang 44 0 0