Hiệu quả phương pháp đo nồng độ lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấp
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 239.19 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấp tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 9/2008 đến 2/2009. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành lấy máu da đầu 67 trường hợp thai nhi có biểu đồ tim thai trong chuyển dạ nghi ngờ để xác định nồng độ lactate giúp chẩn đoán xác định tình trạng thai suy cấp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả phương pháp đo nồng độ lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấpHIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP ĐO NỒNG ĐỘ LACTATE MÁU DA ĐẦUTHAI NHI TRONG CHẨN ĐOÁN THAI SUY CẤPTrần Ngọc Hải*, Nguyễn Ngọc Anh Thư*, Phạm Thanh Hải∗TÓM TẮTMục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấptại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 9/2008 đến 2/2009.Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng.Cách tiến hành: Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành lấy máu da đầu 67 trường hợp thainhi có biểu đồ tim thai trong chuyển dạ nghi ngờ để xác định nồng độ lactate giúp chẩn đoán xác định tình trạngthai suy cấp.Kết quả: trong 67 trường hợp bất thường trên CTG chỉ có 4 trường hợp thai suy thật sự với nồng độ lactatemáu > 5mmol/l và đã được mổ lấy thai kịp thời, tất cả trẻ sơ sinh đềucó Apgar 5’ ≥ 7.Kết luận: Nồng độ lactate máu da đầu thai nhi là một xét nghiệm cần thiết để xác định thai suy trongchuyển dạ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp mổ lấy thai không thực sự cần thiết.ABSTRACTTHE EFFICACY OF MEASURING LACTATE IN FETAL SCALP FOR DIAGNOSIS OF FETALDISTRESSTran Ngoc Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 2 - 2009: 29 – 35Objective: To determine effectiveness of measuring lactate in fetal scalp for diagnosis of fetal distress at TuDu Hospital from September 2008 to Ferbruary 2009.Methods: Clinical Trial. In time of rerearch, fetal scalp blood samples were obtained during labour from 67fetuses, who have abnormal fetal heart monitoring for diagnose fetal distress.Result: There were 4 cases fetal distress with concentration lactate > 5 mmol/l in 67 abnormal cases, andthey were operated with caser, all new born had Appgar 5’ ≥ 7.Conclusion: Concentration of lactate in fetal scalp is the necessary test to define fetal distress in labour inorder to operated caser unnecessary to a minimum.∗Bệnh viện Từ Dũ29ĐẶT VẤN ĐỀSuy thai cấp là một tình trạng thiếu oxy đến thai gây toan hóa thai. Tình trạng toan hôhấp này sẽ diễn tiến thành toan biến dưỡng, khó điều chỉnh, dẫn đến tử suất và bệnh suấtthai nhi cao. Điểm số Apgar thấp sau sanh thường có những di chứng thần kinh về sau.Năm 1966 Hammancher lần đầu tiên đã trình bày lợi ích lâm sàng của việc nghiên cứubiến động tim thai (phương pháp khảo sát sức khỏe thai nhi không gây sang chấn) đã đưara một cuộc cách mạng trong chẩn đoán sớm suy thai cấp, tuy nhiên phương pháp này chỉlà một phương pháp tầm soát, có độ nhạy cao, tỷ lệ dương tính giả cao (50 – 75%), nhưng tỷlệ m tính giả rất thấp. Kết quả tim thai bình thường cho thấy thai nhận đủ oxy(8). Tuy nhiên,khi biểu đồ tim thai bình thường nhưng có một tỷ lệ thai thật sự có tình trạng thiếu oxy (2).Và ngược lại, có một tỷ lệ thai không có tình trạng toan hóa máu nhưng biểu đồ tim thaibệnh lý hay nghi ngờ. Hơn nữa, kết quả biểu đồ tim thai không đánh giá chính xác đượcmức độ nặng của tình trạng suy thai và khả năng chịu đựng của thai.Năm 1962 Saling đã nghiên cứu phân tích pH máu da đầu thai nhi trong chuyển dạ đểđánh giá tình trạng thai thiếu oxy(1). Từ đó, kỹ thuật này được xem như phương pháp lýtưởng để chẩn đoán xác định tình trạng toan hóa thai (bao gồm cả tăng nồng độcarbondioxide và lactate trong máu thai nhi). Phương pháp này có độ nhạy 93%, dương tínhgiả 6%. Việc phân tích pH máu da đầu thai nhi thì phức tạp, hơn nữa mẫu máu thử cần đủlớn để đánh giá (30-50 µl), tỷ lệ lấy mẫu sai khoảng 11-20% (7,9).Từ năm 1970, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về đo lượng lactate trong máu da đầuthai nhi trong chẩn đoán tình trạng toan chuyển hóa, thiếu oxy mô(3,4,6,10). Kết quả lactatemáu cũng cho những tiên lượng như kết quả pH máu da đầu thai nhi. Tuy nhiên, phươngpháp này lại đơn giản hơn và mẫu máu cần ít hơn (5 µl) (5). Tại Bệnh viện Từ Dũ hiện chưacó nghiên cứu nào về hiệu quả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trongchuyển dạ để chẩn đoán xác định tình trạng suy thai cấp, hơn nữa, từ sau Hội Nghị ViệtPháp năm 2008, chúng tôi được cung cấp rất nhiều kiến thức và kỹ năng về phương phápnày, cùng với sự quan tâm của Ban Giám Đốc bệnh viện, chúng tôi thực hiện đề tài “Hiệuquả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấp” vớimong muốn chẩn đoán chính xác tình trạng suy thai cấp để có xử trí chính xác và kịp thời,giảm tỷ lệ mổ lấy thai dự phòng khi biểu đồ tim thai nghi ngờ bệnh lý.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUTrong thời gian nghiên cứu từ 9/2008 đến tháng 2/2009, chúng tôi thực hiện nghiên cứuthử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng cho 67 trường hợp thai nhi có biểu đồ tim thaitrong chuyển dạ nghi ngờ tại Bệnh viện Từ Dũ.Mẫu tính theo công thức:Z2(1-/2) p (1-p)n= -------------------------d230n: cỡ mẫu tối thiểu dùng cho nghiên cứup: tỷ lệ mổ lấy thai do tim thai suy năm 2006, p= 0.15d: độ chính xác tuyệt đối đứng về phía tỷ lệ, chọn d = 0,1Vậy n = 49Thực tế chúng tôi đã tiến hành 67 trường hợp.Sản phụ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian nghiên cứu, có chỉ định chấm dứtthai kỳ (mổ lấy thai cấp cứu hay sanh giúp) vì tim thai suy chẩn đoán qua biểu đồ theo dõitim thai – cơn gò. Tiến hành: hồi sức thai. Giải thích, tư vấn cho sản phụ về lợi ích và tai biếncủa phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi, ký giấy cam kết. Nếu sản phụ đồng ý thựchiện. Tiến hành lấy máu da đầu thai nhi đo nồng độ lactate. Sản phụ được theo dõi chuyểndạ qua máy theo dõi tim thai – cơn gò và chế độ theo dõi thai kỳ nguy cơ cao theo phác đồcủa khoa.Đọc và đánh giá kết quả:- Lactate ≥ 5 mmol/l: cần cho sanh ngay bằng giúp sanh nếu đủ điều kiện hoặc mổ lấythai ngay.- Lactate trung gian: 4,8 – 5 mmol/l: theo dõi tiếp chuyển dạ qua biểu đồ tim thai + hồisức tim thai tiếp tục.- Nếu biểu đồ tim thai nghi ngờ hay bệnh lý tiến hành lặp lại kỹ thuật như trên sau 1 giờđến 2 giờ để đánh giá chỉ số lactate máu.- Số lần thực hiện lấy máu tối đa 3 lần.- Ghi nhận các yếu tố: can thiệp ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiệu quả phương pháp đo nồng độ lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấpHIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP ĐO NỒNG ĐỘ LACTATE MÁU DA ĐẦUTHAI NHI TRONG CHẨN ĐOÁN THAI SUY CẤPTrần Ngọc Hải*, Nguyễn Ngọc Anh Thư*, Phạm Thanh Hải∗TÓM TẮTMục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấptại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 9/2008 đến 2/2009.Thiết kế nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng.Cách tiến hành: Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành lấy máu da đầu 67 trường hợp thainhi có biểu đồ tim thai trong chuyển dạ nghi ngờ để xác định nồng độ lactate giúp chẩn đoán xác định tình trạngthai suy cấp.Kết quả: trong 67 trường hợp bất thường trên CTG chỉ có 4 trường hợp thai suy thật sự với nồng độ lactatemáu > 5mmol/l và đã được mổ lấy thai kịp thời, tất cả trẻ sơ sinh đềucó Apgar 5’ ≥ 7.Kết luận: Nồng độ lactate máu da đầu thai nhi là một xét nghiệm cần thiết để xác định thai suy trongchuyển dạ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp mổ lấy thai không thực sự cần thiết.ABSTRACTTHE EFFICACY OF MEASURING LACTATE IN FETAL SCALP FOR DIAGNOSIS OF FETALDISTRESSTran Ngoc Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 2 - 2009: 29 – 35Objective: To determine effectiveness of measuring lactate in fetal scalp for diagnosis of fetal distress at TuDu Hospital from September 2008 to Ferbruary 2009.Methods: Clinical Trial. In time of rerearch, fetal scalp blood samples were obtained during labour from 67fetuses, who have abnormal fetal heart monitoring for diagnose fetal distress.Result: There were 4 cases fetal distress with concentration lactate > 5 mmol/l in 67 abnormal cases, andthey were operated with caser, all new born had Appgar 5’ ≥ 7.Conclusion: Concentration of lactate in fetal scalp is the necessary test to define fetal distress in labour inorder to operated caser unnecessary to a minimum.∗Bệnh viện Từ Dũ29ĐẶT VẤN ĐỀSuy thai cấp là một tình trạng thiếu oxy đến thai gây toan hóa thai. Tình trạng toan hôhấp này sẽ diễn tiến thành toan biến dưỡng, khó điều chỉnh, dẫn đến tử suất và bệnh suấtthai nhi cao. Điểm số Apgar thấp sau sanh thường có những di chứng thần kinh về sau.Năm 1966 Hammancher lần đầu tiên đã trình bày lợi ích lâm sàng của việc nghiên cứubiến động tim thai (phương pháp khảo sát sức khỏe thai nhi không gây sang chấn) đã đưara một cuộc cách mạng trong chẩn đoán sớm suy thai cấp, tuy nhiên phương pháp này chỉlà một phương pháp tầm soát, có độ nhạy cao, tỷ lệ dương tính giả cao (50 – 75%), nhưng tỷlệ m tính giả rất thấp. Kết quả tim thai bình thường cho thấy thai nhận đủ oxy(8). Tuy nhiên,khi biểu đồ tim thai bình thường nhưng có một tỷ lệ thai thật sự có tình trạng thiếu oxy (2).Và ngược lại, có một tỷ lệ thai không có tình trạng toan hóa máu nhưng biểu đồ tim thaibệnh lý hay nghi ngờ. Hơn nữa, kết quả biểu đồ tim thai không đánh giá chính xác đượcmức độ nặng của tình trạng suy thai và khả năng chịu đựng của thai.Năm 1962 Saling đã nghiên cứu phân tích pH máu da đầu thai nhi trong chuyển dạ đểđánh giá tình trạng thai thiếu oxy(1). Từ đó, kỹ thuật này được xem như phương pháp lýtưởng để chẩn đoán xác định tình trạng toan hóa thai (bao gồm cả tăng nồng độcarbondioxide và lactate trong máu thai nhi). Phương pháp này có độ nhạy 93%, dương tínhgiả 6%. Việc phân tích pH máu da đầu thai nhi thì phức tạp, hơn nữa mẫu máu thử cần đủlớn để đánh giá (30-50 µl), tỷ lệ lấy mẫu sai khoảng 11-20% (7,9).Từ năm 1970, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về đo lượng lactate trong máu da đầuthai nhi trong chẩn đoán tình trạng toan chuyển hóa, thiếu oxy mô(3,4,6,10). Kết quả lactatemáu cũng cho những tiên lượng như kết quả pH máu da đầu thai nhi. Tuy nhiên, phươngpháp này lại đơn giản hơn và mẫu máu cần ít hơn (5 µl) (5). Tại Bệnh viện Từ Dũ hiện chưacó nghiên cứu nào về hiệu quả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trongchuyển dạ để chẩn đoán xác định tình trạng suy thai cấp, hơn nữa, từ sau Hội Nghị ViệtPháp năm 2008, chúng tôi được cung cấp rất nhiều kiến thức và kỹ năng về phương phápnày, cùng với sự quan tâm của Ban Giám Đốc bệnh viện, chúng tôi thực hiện đề tài “Hiệuquả của phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi trong chẩn đoán thai suy cấp” vớimong muốn chẩn đoán chính xác tình trạng suy thai cấp để có xử trí chính xác và kịp thời,giảm tỷ lệ mổ lấy thai dự phòng khi biểu đồ tim thai nghi ngờ bệnh lý.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUTrong thời gian nghiên cứu từ 9/2008 đến tháng 2/2009, chúng tôi thực hiện nghiên cứuthử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng cho 67 trường hợp thai nhi có biểu đồ tim thaitrong chuyển dạ nghi ngờ tại Bệnh viện Từ Dũ.Mẫu tính theo công thức:Z2(1-/2) p (1-p)n= -------------------------d230n: cỡ mẫu tối thiểu dùng cho nghiên cứup: tỷ lệ mổ lấy thai do tim thai suy năm 2006, p= 0.15d: độ chính xác tuyệt đối đứng về phía tỷ lệ, chọn d = 0,1Vậy n = 49Thực tế chúng tôi đã tiến hành 67 trường hợp.Sản phụ thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian nghiên cứu, có chỉ định chấm dứtthai kỳ (mổ lấy thai cấp cứu hay sanh giúp) vì tim thai suy chẩn đoán qua biểu đồ theo dõitim thai – cơn gò. Tiến hành: hồi sức thai. Giải thích, tư vấn cho sản phụ về lợi ích và tai biếncủa phương pháp đo lactate máu da đầu thai nhi, ký giấy cam kết. Nếu sản phụ đồng ý thựchiện. Tiến hành lấy máu da đầu thai nhi đo nồng độ lactate. Sản phụ được theo dõi chuyểndạ qua máy theo dõi tim thai – cơn gò và chế độ theo dõi thai kỳ nguy cơ cao theo phác đồcủa khoa.Đọc và đánh giá kết quả:- Lactate ≥ 5 mmol/l: cần cho sanh ngay bằng giúp sanh nếu đủ điều kiện hoặc mổ lấythai ngay.- Lactate trung gian: 4,8 – 5 mmol/l: theo dõi tiếp chuyển dạ qua biểu đồ tim thai + hồisức tim thai tiếp tục.- Nếu biểu đồ tim thai nghi ngờ hay bệnh lý tiến hành lặp lại kỹ thuật như trên sau 1 giờđến 2 giờ để đánh giá chỉ số lactate máu.- Số lần thực hiện lấy máu tối đa 3 lần.- Ghi nhận các yếu tố: can thiệp ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Đo nồng độ lactate máu Da đầu thai nhi Chẩn đoán thai suy cấp Thai suy cấpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 314 0 0 -
5 trang 306 0 0
-
8 trang 260 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 251 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 236 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 223 0 0 -
13 trang 202 0 0
-
5 trang 201 0 0
-
8 trang 201 0 0
-
Tình trạng viêm lợi ở trẻ em học đường Việt Nam sau hai thập niên có chương trình nha học đường
4 trang 196 0 0