Hình thái lưu vực và vùng ngập
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 138.83 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Do phụ thuộc vào địa hình nơi xây dựng nên hình thái lưu vực và vùng ngập của lòng hồ rất phức tạp. Ngoài độ cao không đồng đều chúng ta cần lưu ý đến một số đặc trưng của từng hồ như: diện tích vùng ngập; diện tích phần núi cao, rừng rậm, đồi trọc, diện tích ruộng, bãi canh tác; biến động độ cao từ lòng sông, suối đến ruộng; tình hình thảm thực vật, dân cư và đặc điểm các công trình xây dựng... Trong vùng ngập và khu vực đáy hồ rất không bằng phẳng,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình thái lưu vực và vùng ngậpHình thái lưu vực và vùng ngập Do phụ thuộc vào địa hình nơi xây dựng nênhình thái lưu vực và vùng ngập của lòng hồ rất phứctạp. Ngoài độ cao không đồng đều chúng ta cần lưu ýđến một số đặc trưng của từng hồ như: diện tích vùngngập; diện tích phần núi cao, rừng rậm, đồi trọc, diệntích ruộng, bãi canh tác; biến động độ cao từ lòngsông, suối đến ruộng; tình hình thảm thực vật, dân cưvà đặc điểm các công trình xây dựng... Trong vùng ngập và khu vực đáy hồ rất khôngbằng phẳng, độ sâu không đồng đều là đặc điểmchính lớn nhất của hình thái vùng ngập của hồ chứanước. Tuy nhiên mức độ phức tạp có khác nhau giữacác hồ và hồ ở trung du ít phức tạp hơn miền núi.Ngoài ra mức độ phức tạp còn tùy thuộc vào khảnăng cải tạo của con người trước khi cho hồ ngậpnước. Trong lòng hồ chứa chỗ sâu nhất là lòng suối,lòng sông cũ, đặc biệt là ở khu vực gần đập chính.Càng lên thượng lưu độ sâu càng giảm dần. Đối vớihồ chứa nước cỡ nhỏ độ sâu trung bình chỉ từ 4-6m,lớn nhất cũng chỉ 15m; ở các hồ cỡ lớn như CấmSơn, Thác bà độ sâu trung bình là 10-12m. Chỗ sâunhất có đến 33-35m. Hồ Hòa Bình có độ sâu lớn nhất(hơn 110m).3.4- Phân chia khu vực trong một hồ chứa nước Trong một hồ chứa do địa hình vùng ngập quyếtđịnh nên các đặc điểm về hình thái, thủy văn sinh vậthọc thường có sự khác nhau giữa các khu vực. Sựkhác nhau này ở các hồ chứa cỡ nhỏ thể hiện khôngrõ như ở các hồ lớn. * Phân chia theo chiếu ngang:Một số hồ chứa lớn thường được phân chia thành 3khu vực: - Vùng hạ lưu gần đập - Vùng trung lưu - Vùng thượng lưu.* Phân chia theo chiều thẳng đứng: Trong nghề cá căn cứ vào tính chất năng suất củacác vùng ngập nước các chuyên gia đã chia vùngngập nước thành 4 vùng như sau:1. Vùng ngập thứ nhất Đặc điểm của vùng này là thời gian ngập nướcngắn, thời gian khô hạn kéo dài (thường là hơn nửanăm). Sau thời gian ngập nước cây cối lại khôi phục,nhất là những cây cỏ thực vật thân thảo, chúng sẽ bịthối rữa đi khi hồ ngập nước trở lại. Quá trình phânhủy như thế tạo điều kiện tốt cho cho sinh vật trongnước phát triển. Trong thời gian khô nếu là đồngruộng thì ta có thể tiến hành sản xuất nông nghiệplàm cho đất tơi, xốp. Nếu không phải là đồng ruộngthì có thể gieo trồng các loài cây họ đậu, các loạiphân xanh làm tăng nguồn dinh dưỡng cho hồ. Điềuđó sẽ làm cho các loài sinh vật làm thức ăn tự nhiêncho cá có điều kiện phát triển tốt tạo thuận lợi choviệc nuôi cá sau này.2. Vùng ngập thứ hai Vùng này thời gian khô cạn ngắn hơn so vớithời gian bị ngập nước (khô khoảng 3-5 tháng). Cũngnhư vùng ngập I, vùng này có khả năng làm tăng độmàu mỡ cho đất và có tác dụng làm tăng năng suất vàsản lượng của các loài động vật đáy. Đứng về mặtsinh học mà nói thì vùng này có năng suất cao nhấtso với toàn bộ các vùng khác của hồ chứa. Nếu ta cóbiện pháp cải tạo tốt, đồng thời biết sử dụng đất đailúc khô một cách hợp lý sẽ làm tăng nguồn lợi của cáhồ lên rất nhiều.3. Vùng ngập thứ ba Là vùng gần mức nước chết (còn gọi là vùngkhô cuối cùng) Thời gian khô nước rất ngắn (1-2tháng) sau đó lại ngập lại rất nhanh. Do có thời giankhô ngắn nên các loài thực vật không đủ khả năngphát triển trở lại. Tuy nhiên, điều này tạo ra cơ hộithuận lợi cho các vi khuẩn hiếu khí phát triển để phânhủy các hợp chất hữu cơ và giải phóng các chất khíđộc hại ra ngoài.4. Vùng ngập thứ tư (còn gọi là vùng nước chết) Vùng này hàng năm không hề có thời gian khô,có độ sâu lớn, các loài thực vật không sống được.Các loài sinh vật đáy phát triển rất kém thậm chíhoàn toàn không có do độ sâu quá lớn làm cho ápsuất nước rất cao, ánh sáng không phân bố tới v.v.... Trên cơ sở cách phân chia như trên và trên cơsở thực tế của từng hồ mà mỗi hồ có thể có sựphân chia khác nhau. Trong khi nghiên cứu hồchứa Thác Bà các chuyên gia đã phân ra 4 vùngchủ yếu như sau (ví dụ tham khảo) Vùng ngập thứ nhất: Cao trình từ 57,8m -56,0m. Có diện tích 1000ha. Thời gian ngập nước là5 tháng (từ tháng 8 - tháng 1). Vùng ngập thứ hai: Có cao trình từ 56,0mđến 52,0m. Có diện tích 3800ha, thời gian ngập nước9 tháng, hở từ tháng 2 đến tháng 4, rồi lại ngậpnhanh. Vùng ngập thứ 3: Từ cao trình 52-50m diệntích khoảng 1000ha, hở khoảng 1-2 tháng trong năm. Vùng ngập thứ 4: (Vùng nước chết) là phầncòn lại. Vùng ng p th nh t Vùng ng p th II Vùng ng p th III Vùng n c ch tS PHÂN CHIA V NG NG P THEO CHI U TH NG NG ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hình thái lưu vực và vùng ngậpHình thái lưu vực và vùng ngập Do phụ thuộc vào địa hình nơi xây dựng nênhình thái lưu vực và vùng ngập của lòng hồ rất phứctạp. Ngoài độ cao không đồng đều chúng ta cần lưu ýđến một số đặc trưng của từng hồ như: diện tích vùngngập; diện tích phần núi cao, rừng rậm, đồi trọc, diệntích ruộng, bãi canh tác; biến động độ cao từ lòngsông, suối đến ruộng; tình hình thảm thực vật, dân cưvà đặc điểm các công trình xây dựng... Trong vùng ngập và khu vực đáy hồ rất khôngbằng phẳng, độ sâu không đồng đều là đặc điểmchính lớn nhất của hình thái vùng ngập của hồ chứanước. Tuy nhiên mức độ phức tạp có khác nhau giữacác hồ và hồ ở trung du ít phức tạp hơn miền núi.Ngoài ra mức độ phức tạp còn tùy thuộc vào khảnăng cải tạo của con người trước khi cho hồ ngậpnước. Trong lòng hồ chứa chỗ sâu nhất là lòng suối,lòng sông cũ, đặc biệt là ở khu vực gần đập chính.Càng lên thượng lưu độ sâu càng giảm dần. Đối vớihồ chứa nước cỡ nhỏ độ sâu trung bình chỉ từ 4-6m,lớn nhất cũng chỉ 15m; ở các hồ cỡ lớn như CấmSơn, Thác bà độ sâu trung bình là 10-12m. Chỗ sâunhất có đến 33-35m. Hồ Hòa Bình có độ sâu lớn nhất(hơn 110m).3.4- Phân chia khu vực trong một hồ chứa nước Trong một hồ chứa do địa hình vùng ngập quyếtđịnh nên các đặc điểm về hình thái, thủy văn sinh vậthọc thường có sự khác nhau giữa các khu vực. Sựkhác nhau này ở các hồ chứa cỡ nhỏ thể hiện khôngrõ như ở các hồ lớn. * Phân chia theo chiếu ngang:Một số hồ chứa lớn thường được phân chia thành 3khu vực: - Vùng hạ lưu gần đập - Vùng trung lưu - Vùng thượng lưu.* Phân chia theo chiều thẳng đứng: Trong nghề cá căn cứ vào tính chất năng suất củacác vùng ngập nước các chuyên gia đã chia vùngngập nước thành 4 vùng như sau:1. Vùng ngập thứ nhất Đặc điểm của vùng này là thời gian ngập nướcngắn, thời gian khô hạn kéo dài (thường là hơn nửanăm). Sau thời gian ngập nước cây cối lại khôi phục,nhất là những cây cỏ thực vật thân thảo, chúng sẽ bịthối rữa đi khi hồ ngập nước trở lại. Quá trình phânhủy như thế tạo điều kiện tốt cho cho sinh vật trongnước phát triển. Trong thời gian khô nếu là đồngruộng thì ta có thể tiến hành sản xuất nông nghiệplàm cho đất tơi, xốp. Nếu không phải là đồng ruộngthì có thể gieo trồng các loài cây họ đậu, các loạiphân xanh làm tăng nguồn dinh dưỡng cho hồ. Điềuđó sẽ làm cho các loài sinh vật làm thức ăn tự nhiêncho cá có điều kiện phát triển tốt tạo thuận lợi choviệc nuôi cá sau này.2. Vùng ngập thứ hai Vùng này thời gian khô cạn ngắn hơn so vớithời gian bị ngập nước (khô khoảng 3-5 tháng). Cũngnhư vùng ngập I, vùng này có khả năng làm tăng độmàu mỡ cho đất và có tác dụng làm tăng năng suất vàsản lượng của các loài động vật đáy. Đứng về mặtsinh học mà nói thì vùng này có năng suất cao nhấtso với toàn bộ các vùng khác của hồ chứa. Nếu ta cóbiện pháp cải tạo tốt, đồng thời biết sử dụng đất đailúc khô một cách hợp lý sẽ làm tăng nguồn lợi của cáhồ lên rất nhiều.3. Vùng ngập thứ ba Là vùng gần mức nước chết (còn gọi là vùngkhô cuối cùng) Thời gian khô nước rất ngắn (1-2tháng) sau đó lại ngập lại rất nhanh. Do có thời giankhô ngắn nên các loài thực vật không đủ khả năngphát triển trở lại. Tuy nhiên, điều này tạo ra cơ hộithuận lợi cho các vi khuẩn hiếu khí phát triển để phânhủy các hợp chất hữu cơ và giải phóng các chất khíđộc hại ra ngoài.4. Vùng ngập thứ tư (còn gọi là vùng nước chết) Vùng này hàng năm không hề có thời gian khô,có độ sâu lớn, các loài thực vật không sống được.Các loài sinh vật đáy phát triển rất kém thậm chíhoàn toàn không có do độ sâu quá lớn làm cho ápsuất nước rất cao, ánh sáng không phân bố tới v.v.... Trên cơ sở cách phân chia như trên và trên cơsở thực tế của từng hồ mà mỗi hồ có thể có sựphân chia khác nhau. Trong khi nghiên cứu hồchứa Thác Bà các chuyên gia đã phân ra 4 vùngchủ yếu như sau (ví dụ tham khảo) Vùng ngập thứ nhất: Cao trình từ 57,8m -56,0m. Có diện tích 1000ha. Thời gian ngập nước là5 tháng (từ tháng 8 - tháng 1). Vùng ngập thứ hai: Có cao trình từ 56,0mđến 52,0m. Có diện tích 3800ha, thời gian ngập nước9 tháng, hở từ tháng 2 đến tháng 4, rồi lại ngậpnhanh. Vùng ngập thứ 3: Từ cao trình 52-50m diệntích khoảng 1000ha, hở khoảng 1-2 tháng trong năm. Vùng ngập thứ 4: (Vùng nước chết) là phầncòn lại. Vùng ng p th nh t Vùng ng p th II Vùng ng p th III Vùng n c ch tS PHÂN CHIA V NG NG P THEO CHI U TH NG NG ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thức ăn thủy sản đánh bắt thủy sản xử lý nước thải kỹ thuật nuôi cá quản lý cá nuôiGợi ý tài liệu liên quan:
-
191 trang 174 0 0
-
7 trang 147 0 0
-
37 trang 138 0 0
-
22 trang 125 0 0
-
HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM Ở VIỆT NAM
11 trang 117 0 0 -
0 trang 113 0 0
-
Mô hình nuôi tôm sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long
7 trang 100 0 0 -
108 trang 99 0 0
-
Luận văn: Thiết kế công nghệ nhà máy xử lý nước thải thành phố Quy Nhơn
100 trang 94 0 0 -
35 trang 87 0 0