Danh mục

HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM Ở VIỆT NAM

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 186.86 KB      Lượt xem: 115      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tiềm năng và hiện trạng Việt Nam là một quốc gia có 3.260 km bờ biển chạy dọc theo hướng Bắc-Nam, từ Móng Cái đến mũi Cà Mau. Với tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2, trong đó có khoảng 710.000 ha diện tích tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng triều. Bên cạnh đó có trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, địa hình phức tạp chạy dọc ven biển và 112 cửa sông chính đổ trục tiếp ra biển. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM Ở VIỆT NAM HIỆN TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM Ở VIỆT NAM 2.2.1. Tiềm năng và hiện trạng Việt Nam là một quốc gia có 3.260 km bờ biển chạy dọc theo hướng Bắc-Nam, từ Móng Cái đến mũi Cà Mau. Với tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2, trong đó có khoảng 710.000 ha diện tích tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng triều. Bên cạnh đó có trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, địa hình phức tạp chạy dọc ven biển và 112 cửa sông chính đổ trục tiếp ra biển. Điều này đã tạo ra nhiều đầm, phá, cửa sông, vũng, vịnh, các ao đầm thuộc vùng triều. Đây là tiềm năng rất lớn cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển Việt Nam nói chung và nghề nuôi động vật thân mềm nói riêng. Việt nam là một nước nhiệt đới có thành phần loài các đối tượng thuỷ sản nói chung và động vật thân mềm nói riêng rất phong phú và đa dạng. Theo Jorgen Hyllenberg (2003), có khoảng 2200 loài động vật thân mềm thuộc 700 giống của 200 họ với trên 80 loài có giá trị kinh tế cao, chủ yếu tập trung ở các họ Sò (Arcidae), Ngao (Vereridae), Phi (Psammobiidae), Bào ngư Halitidae), Hầu (Ostreidae) Vẹm, Tu hài…Trong đó, hiện nay có khoảng hơn 25 loài khác nhau có thể đưa vào nuôi ở các vùng ven biển; chúng phân bố ở hầu hết các tỉnh ven biển. Tuy nhiên, mỗi vùng có nhưng loài đặc thù riêng. Với tổng diện tích tiềm năng có thể nuôi động vật thân mềm trong cả nước ước tính là 56.000 ha. Cho đến nay, diện tích đã nuôi và năng suất, sản lượng nuôi đạt được qua các năm chưa ổn định. Có sự phát triển mạnh vào những năm 2002, sau đó có phần chững lại. Đến năm 2008 tổng diện tích nuôi cả nước (thống kê chưa đầy đủ) là 20.222 ha với sản lượng đạt 93.943 tấn. Bảng 2. Diễn biến diện tích, năng suất và sản lượng ĐVTM nuôi qua các năm 2000 2002 2007 2008 Chỉ Năm tiêu 2010 Diện tích nuôi 18.340 24.205 - 20.22 20.000 (ha) 2 Sản lượng 76.290 124.768 230.0 93.94 380.00 (tấn) 00 3 0 Năng suất 4,2 5,2 - - 17 (tấn/ha) (Nguồn: Bộ Thủy sản 2000-2002, Cục Nuôi trồng thủy sản 2008) Bảng 3. Các tỉnh và diện tích, sản lượng ĐVTM nuôi năm 2008 Sản lượng Diện tích (ha) Địa phương (tấn) Hải phòng 298 1.981 Nam Định 1410 15.000 Ninh Binh 47 800 Thái Bình - - Thanh Hoá 500 3.700 Nghệ An Hà Tĩnh 200 TT Huế 100 203 Phú Yên - 20 Khánh Hòa 445 2.500 Ninh Thuận 17 85 Vũng Tàu 295 1.093 Bến Tre 9.600 7.150 Trà Vinh 2.801 3.384 Bạc Liêu 1.309 7.700 Cà Mau 2.500 10.412 Kiên Giang 10.300 39.915 Cả nước 20.222 93.943 (Nguồn: Cục NTTS, tính toán theo số liệu báo cáo của các tỉnh) * Đối tượng nuôi mang tính đặc thù của từng vùng. Trong đó: - Ngao, nghêu được tập trung nuôi ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, các tỉnh thuộc Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và vùng cửa sông Đồng Nai như Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh). - Nuôi sò huyết tại Quảng Ninh, Kiên Giang và Ninh Thuận. - Nuôi trai lấy ngọc tập trung ở Quảng Ninh, Khánh Hoà, Phú Yên và huyện đảo Phú Quốc. - Nuôi ốc hương tập trung ở Bình Thuận, Khánh Hoà, Phú Yên. - Nuôi hàu tập trung ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hoà, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Cần Giờ, Bà Rịa Vũng Tàu, Nghệ An. - Nuôi vẹm xanh tại Đầm Năng Cô (Thừa Thiên Huế), Khánh Hoà, Quảng Ninh, Bình Định. * Hình thức sử dụng mặt nước rất phong phú từ nuôi bãi triều, nuôi cửa sông, lạch triều, đầm phá, vùng biển mở, vùng biển kín, eo vịnh, các đảo và các ao đầm,... Loại hình nuôi cũng phong phú như: nuôi bãi, nuôi đá, nuôi cọc, nuôi giàn cố định, nuôi giàn nổi, nuôi lồng, nuôI ao, nuôi khay, nuôi bằng tấm procement, lốp xe,... Nhìn chung, nuôi động vật thân mềm ở Việt Nam đang có xu hướng phát triển mạnh, đặc biệt là nuôi Nghêu, Ngao, Sò Huyết, ốc Hương, Vẹm xanh. Chiến lược ngành thuỷ sản đến 2010 là phát triển nuôi động vật thân mềm với diện tích 20.000 ha, năng suất 17 tấn/ha đạt sản lượng 380.000 tấn, đạt giá trị xuất khẩu 350 triệu USD và tạo việc làm cho 15.000 người. Động vật thân mềm đang được xem là đối tượng ưu thế trong chiến lược phát triển nuôi biển của nước ta hiện nay. 2.2.2. Một số hướng ngiên cứu và phát triển nghề nuôi động vật thân mềm - Hướng nghiên cứu trong thời gian tới cần cân đối tỷ lệ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Trong nghiên cứu cơ bản cần tập trung những vấn đề sau: + Về đa dạng sinh học ĐVTM biển Việt Nam: Nghiên cứu đa dạng sinh học đã có nhiều kết quả nhưng cũng chưa được quan tâm đúng mức, quá trình nghiên cứu còn gián đoạn, nhiều mẫu vật thu thập, lưu giữ chưa được phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế. Trong những năm tới, cần phát hiện và cập nhật thêm các loài ĐVTM có ở biển Việt Nam nhất là các lòai có kích thước nhỏ. Nghiên cứu thành phần các loài ĐVTM có trong lớp trầm tích để làm chỉ thị cho việc khai thác dầu mỏ là hướng quan tâm mới của nhà nước nói chung và Trung tâm nghiên cứu phát triển du lịch an toàn và môi trường dầu khí nói riêng. Nhiệm vụ này được giao cho các nhà khoa học ở các Viện, Trường như Viện Hải Dương học Nha Trang, Viện tài nguyên và ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: