Miếu trúc và Đình Thổ Tang (làng Thổ Tang, Vĩnh Lạc, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) thờ Lân Hổ Đô Thống Đại Vương. Địa danh vùng di tích nhiều lần thay đổi tên Tỉnh, nhưng tên làng- xã thì còn nguyên. Chúng tôi đã đến di tích nghiên cứu, bám sát hiện vật, đọc Thần vị, hoành phi, câu đối, giải mã nội dung hình tượng nghệ thuật chạm khắc, phát hiện những giá trị mới của di tích. Dựa vào Thần vị của Miếu Trúc và truyền thuyết dân gian ta biết về thân thế và sự nghiệp đánh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HÌNH TƯỢNG CHẠM KHẮC TRONG MIẾU TRÚC VÀ ĐÌNH THỔ TANG
HÌNH TƯỢNG CHẠM KHẮC
TRONG MIẾU TRÚC VÀ ĐÌNH
THỔ TANG
Miếu trúc và Đình Thổ Tang (làng Thổ Tang, Vĩnh Lạc, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc)
thờ Lân Hổ Đô Thống Đại Vương. Địa danh vùng di tích nhiều lần thay đổi tên
Tỉnh, nhưng tên làng- xã thì còn nguyên. Chúng tôi đã đến di tích nghiên cứu, bám
sát hiện vật, đọc Thần vị, hoành phi, câu đối, giải mã nội dung hình tượng nghệ
thuật chạm khắc, phát hiện những giá trị mới của di tích.
Dựa vào Thần vị của Miếu Trúc và truyền thuyết dân gian ta biết về thân thế và sự
nghiệp đánh giặc Nguyên Mông của Lân Hổ Đô Thống Đại Vương. Các làng:
Đồng Bảng (Sơn Tây cũ nay về Hà Nội), Trung Kiên và Thổ Tang (Vĩnh Lạc)
cùng Cao Xá, Tứ Xã, Thụy Vân, Hợp Hải, Xuân Huy (Phong Châu) đều thờ Lân
Hổ Đô Thống Đại Vương để nhớ ơn công dẹp giặc cứu dân, cứu nước. Lân Hổ
không thấy ghi trong các quyển lịch sử? bởi chăng là khởi nghĩa của dân binh hay
sử gia bỏ sót?. Song thân thế sự nghiệp của ngài được ghi rõ ràng trong Thần vị,
Thần phả, tại các nơi thờ linh thiêng và sâu đậm trong tâm thức nhân dân. Sức
sống mãnh liệt của Lân Hổ Đô Thống Đại Vương với niềm tự hào về tinh thần
thượng võ trong huyền sử, trong văn hóa dân gian vùng Vĩnh Phúc - Phú Thọ. Câu
đối ở đình Mỹ Dục (Cao Xá) và Thạch Cáp (Tứ Xã): “Trận phá Nguyên binh, vạn
cổ anh uy lưu bất tử. Đỉnh phù Trần tộ, thiên thu chính khí lẫm anh hùng”. (Nghĩa
là: Trận đánh giặc Nguyên, uy vũ và khí phách anh hùng vạn đời còn lưu danh bất
tử. Ra sức phù cơ nghiệp nhà Trần, ngàn thu chính khí vằng vặc hiển hách linh
thiêng). “Phù Trần vĩ liệt lưu Nam sử. Sát Thát anh uy trấn Bắc phương” (Nghĩa
là: Phù Trần, sử Nam lưu khí phách. Diệt Thát, uy vũ chặn Bắc phương).
Điển tích hình tượng anh hùng Lân Hổ trở thành nội dung quan trọng cho nghệ
nhân sáng tạo các hình tượng điêu khắc, làm đậm nét về người anh hùng huyền
thoại. Từ cốt lõi về nhân vật thờ tự, ta tìm ra được nội dung ý nghĩa những bức
chạm khắc, vốn tiềm ẩn của di tích Thổ Tang.
I. Miếu Trúc thờ “Lân Hổ Đô Thống Đại Vương “. Ngài là nhân thần, là người anh
hùng có công đánh giặc Nguyên Mông. Thần Tích đề cao:“Lân Hổ thân cao tám
thước, sức nhấc trăm cân, lại có lòng thương yêu giúp đỡ người, nên được nhân
dân yêu quý. Giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta, giết hại dân chúng, tàn
phá xóm làng. Vua Trần ban bố kêu gọi toàn dân đánh giặc. Lân Hổ liền chiêu mộ
dân binh, được thanh niên trai tráng trong vùng ùn ùn kéo đến xin theo. Giặc đóng
quân ở ven sông Bạch Hạc và huyện Sơn Vi. Lân Hổ xin vua ban cho ngựa sắt và
truỳ sắt, cùng quân sĩ của mình lên đường đánh giặc. Hai võ tướng đắc lực cùng
ngài là Phùng Sáo Đen và Phùng Sáo Đá đều là cậu ruột của ngài. Trận đánh quyết
liệt tại làng Thổ Tang (Vĩnh Lạc), Lân Hổ vung Trùy sắt đánh cho giặc chết như
rạ. Lân Hổ đuổi giặc đến đồi Trúc, trong lúc tả xung hữu đột đánh giặc quây phía
trước, bị tướng giặc phía sau lén dùng đao chém ngang cổ cụt đầu. Lân Hổ không
hề nao núng, liền lấy tay đỡ đầu, đặt lên cổ, xé giải áo buộc lại, tiếp tục chiến đấu,
chém chết tên tướng giặc. Lân Hổ đuổi qua ngã ba Bạch Hạc đánh tan quân
giặc.Ngựa phi đến cầu Xa Lộc (nay là cầu Dòng Dọc) quãng giữa hai xã Tứ Xã và
Cao Xá (huyện Phong Châu) Lân Hổ mới chịu hy sinh. Vua Trần khe n ngợi,
phong là “Lân Hổ Đô Thống Đại Vương”, ban tặng tám chữ vàng: “Nam thiên
tráng khí. Bắc khấu hàn tâm” (Trời Nam hùng khí. Giặc Bắc lạnh tim). Nhân dân
nhớ ơn lập Miếu thờ, suy tôn .Các triều vua đời sau đều có sắc phong tặng ngài”.
Đồi Trúc làng Thổ Tang, nơi Lân Hổ bị trọng thương và nhỏ máu đã được chọn là
nơi lập Miếu thờ. Miếu làm trên đồi Trúc - nên gọi là Miếu Trúc.
Miếu Trúc lập dựng từ thời Trần, song trải qua nhiều biến cố bị h ư hỏng, nhưng
vẫn được tu tạo gìn giữ. Lần tu tạo cuối là năm 1882 - thời vua Tự Đức còn lưu lại
đến nay. Về bố cục mặt bằng khuôn viên có tường bao quanh, rêu phong cổ kính.
Phía trước là sân rộng lát gạch. Mặt tiền của cổng chia làm 5 khoảng, ngăn cách
bằng các trụ biểu vuông, trên trụ có mái giả và vút cong hình búp hoa. Cổng
chính: phía trên đắp nổi rồng chầu mặt trời. Mái xây liền tường chia làm 2 lớp, các
đầu góc đều uốn cong, tạo thành một khối. Cửa ra vào xây cuốn hình vòm. Phần
giữa hai lớp mái kẻ chỉ khung đắp nổi hàng chữ “Tối Linh Tự”. Hai bên đắp nổi
hai võ quan gác cổng. Thềm bậc tam cấp, đối xứng hai bên là tượng con sấu. Bên
trong là Phương đình và Toà Hậu cung. Kiến trúc hiện tại mang phong cách thời
Nguyễn. Phương đình còn câu đối cổ: “Trúc lĩnh uy danh thùy vũ trụ. Trúc lâm
miếu hưởng vĩnh xuân thu” viết trên ván gỗ sơn son thếp truyền thống. Trong
miếu còn giữ được hoành phi: “Quyết sơ sinh dân” (làm năm Nhâm Ngọ 1882),
ngai thờ và “Thần vị Lân Hổ Đô Thống Đại Vương”. Trước cung là bức chạm đầu
Chúa sơn lâm hai tai xoè, chung quanh là mây xoắn và mây hình mũi mác. Lối
chạm kênh bong, dài ngang bằng cửa cung cấm.
II. Đình Thổ Tang: Thế kỷ XVI dân làng xây dựng đình, suy tôn Lân Hổ Đô
Thống Đại Vương là Thánh Hoàng làng. Đình dựng theo kiểu chữ Đinh. Đại đình
là toà nhà lớn phía trước, chia làm 5 gian: 2 dĩ. Phần nhô ra phía sau là hậu cung.
Mái đình lợp ngói ta vẩy hến. Bốn góc mái có đao cong. Phần cột của đại đ ình
gồm 56 cột gỗ, được phân bố 8 hàng chạy ngang, 6 hàng dọc. Phần cột của hậu
cung gồm 4 hàng chạy ngang, 2 hàng dọc. Cột lớn ở gian chính có đường kính
0m80, cột nhỡ 0m45. Chiều ngang 25m80, chiều dọc 14m20, chung quanh bó đá
xanh. Đình còn nhiều bức chạm gỗ cổ độc đáo. Chính giữa đại đình là hoành phi:
“Hòa Vi Quý”. Tại đại sảnh của gian thờ chính có nhiều bức chạm gỗ, với nội
dung hình tượng tôn thờ anh hùng Lân Hổ Đô Thống Đại Vương. Tiếp xúc nghiên
cứu giải mã hình tượng, ta phát hiện ra ý nghĩa nội dung các bức chạm khắc:
1. Bức “Sơn lâm tụ sinh “ đặt trên cao chính diện gian giữa của đại đình. Đây là
bức chạm khắc công phu, dày đặc hình tượng, thể hiện vùng rừng núi quần tụ cuộc
sống của các loài muông thú cây rừng, mây nước, với lối chạm nổi cao và sâu trên
hai tấm gỗ ghép lại. Bức phù điêu lớn ...