HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 5
Số trang: 26
Loại file: pdf
Dung lượng: 469.52 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Các biện pháp tự vệ không áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ một nước đang phát triển nếu tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng đó từ nước đang phát triển được đề cập chiếm không quá 3%, và tổng lượng nhập khẩu mặt hàng đó có xuất xứ từ tất cả các nước đang phát triển không quá 9%. Theo thỏa thuận cam kết của Việt Nam gia nhập WTO, trong vòng 12 năm (từ ngày 1-1-2007 tới ngày 31-12-2018) khi một nước nhập khẩu là Thành viên WTO quyết định áp thuế chống bán phá...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 5 Các biện pháp tự vệ không áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ một nước đang phát triển nếu tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng đó từ nước đang phát triển được đề cập chiếm không quá 3%, và tổng lượng nhập khẩu mặt hàng đó có xuất xứ từ tất cả các nước đang phát triển không quá 9%. Theo thỏa thuận cam kết của Việt Nam gia nhập WTO, trong vòng 12 năm (từ ngày 1-1-2007 tới ngày 31-12-2018) khi một nước nhập khẩu là Thành viên WTO quyết định áp thuế chống bán phá giá với hàng nhập khẩu từ Việt Nam, họ có quyền dựa trên chi phí sản xuất thực tế của Việt Nam hoặc sử dụng chi phí sản xuất của một quốc gia khác có điều kiện tương tự làm cơ sở tính toán mức phá giá, trợ cấp13. 2.5. THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Theo qui định của WTO, doanh nghiệp thương mại nhà nước (STE) là doanh nghiệp được Nhà nước dành cho những ưu đãi, quyền lợi đặc biệt so với các doanh nghiệp khác trong hoạt động xuất nhập khẩu. STE khác với doanh nghiệp quốc doanh ở chỗ vốn của loại hình doanh nghiệp này không hoàn toàn là sở hữu của Nhà nước mà bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào (quốc doanh, cổ phần, liên doanh, tư nhân, v.v…) đều có thể được hưởng đặc quyền của Nhà nước và do vậy đều có thể gọi là STE. Điều XVII của GATT thừa nhận STE là những doanh nghiệp pháp lý cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, nhưng yêu cầu “khi thực hiện mua bán hàng hóa thông qua xuất khẩu hay nhập khẩu phải tuân thủ các nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử đã nêu trong Hiệp định này liên quan đến các biện pháp của Chính phủ tác động tới hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân” và “những doanh nghiệp này khi tiến hành mua bán như vậy chỉ căn cứ vào các tiêu chí thương mại, và phải dành cho các doanh nghiệp của các Thành viên cơ hội thích hợp tham gia vào hoạt động mua bán này”. Ngoài ra, Điều XVII cũng yêu cầu các Thành viên thông báo các Thành viên khác “về những sản phẩm được nhập khẩu hoặc xuất khẩu từ 13 www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=151&article=85565 - 26k - 111 lãnh thổ của mình” do các STE tiến hành nhưng sự thông báo này không có nghĩa là họ phải “tiết lộ các thông tin không phổ biến mà nếu được tiết lộ sẽ gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật hay đi ngược lại lợi ích của cộng đồng hoặc gây tổn hại đến quyền lợi thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhất định”. WTO nhận thấy các biện pháp làm bóp méo thương mại có thể xảy ra như là kết quả từ thương mại nhà nước. Hai mối quan tâm cơ bản mà WTO đang xem xét trong các STE là: Các ưu tiên về độc quyền dành riêng cho STE cho phép họ có những hành vi phi cạnh tranh từ đó góp phần bóp méo thương mại; các hoạt động hay việc định giá của STE còn minh bạch có thể che đậy những vi phạm trong việc thực hiện các cam kết và nghĩa vụ của một quốc gia. Khi các nước Thành viên của WTO đang hướng tới việc áp dụng thuế nhập khẩu là công cụ chính sách thương mại duy nhất, thì các Thành viên WTO có thể cần phải cải thiện các qui định về hành vi phi cạnh tranh của các STE. Việc thiếu tính minh bạch trong công tác định giá và hoạt động của STE đã khiến một số Thành viên WTO bày tỏ mối quan ngại việc các Thành viên khác có thể sử dụng STE để lẩn tránh các cam kết ở Vòng Uruguay về trợ cấp xuất khẩu, tiếp cận thị trường và hỗ trợ trong nước. Thương mại nhà nước là một nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc cũng như các nước có nền kinh tế phụ thuộc STE tương tự. Sự không rõ ràng về thể chế thương mại của một số nước đang gia nhập mà ở đó STE đóng một vai trò chủ đạo trong hoạt động xuất nhập khẩu có thể che giấu những hàng rào nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu. Quy định về thương mại nhà nước thể hiện ở hai điểm: Thứ nhất, phải phù hợp với nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử, tức là hoạt động mua hoặc bán phải căn cứ vào các yếu tố mang tính thương mại và phải dành cơ hội thích đáng cho doanh nghiệp nước ngoài được tham gia các hoạt động mua hoặc bán đó. Thứ hai, phải minh bạch, tức là phải thông báo cho các Thành viên WTO khác thông qua Hội đồng thương mại hàng hóa của WTO. Mỗi nước phải thông báo cho WTO tên các STE hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các loại hàng hóa mà các doanh nghiệp này 112 kinh doanh và các thông tin khác (ở dạng điền vào mẫu cho sẵn). Các nước cũng phải thường xuyên rà soát để cung cấp thông tin cập nhật về hoạt động của các STE. Thương mại nhà nước có vị trí quan trọng hơn đối với ngành nông nghiệp nếu so với các ngành khác bởi vì nhiều quốc gia, bao gồm cả quốc gia phát triển và đang phát triển, coi đó là một công cụ thích hợp để đạt được các mục tiêu chính sách nông nghiệp trong nước, chẳng hạn như trợ giá cho người nông dân, khai thác tính kinh tế theo qui mô trong thu mua và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp chính, cũng như tăng cường an ninh lương thực. Theo cam kết của Việt Nam vào WTO, Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Việt Nam cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của doanh nghiệp nhà nước không phải là mua sắm chính phủ14. 2.6. CÁC QUI ĐỊNH KỸ THUẬT VỀ TIÊU CHUẨN SẢN PHẨM Trong thương mại, tiêu chuẩn làm cho người mua và người bán có thể dễ dàng hiểu nhau khi đàm phán về một mặt hàng5. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cũng tạo ra những trở ngại nhất định. Do tồn tại nhiều loại tiêu chuẩn giữa các quốc gia, khu vực nên hàng hóa khi nhập khẩu vào một nước có thể bị bắt buộc phải theo những tiêu chuẩn của nước ấy. Vì vậy, hàng hóa có thể không bán được vào thị trường nước có tiêu chuẩn khắt khe (mặc dù đã được hưởng ưu đãi về thuế quan), hoặc phải tốn thêm chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn đó và mất thêm thời gian khi giao hàng để kiểm tra xem ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 5 Các biện pháp tự vệ không áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ từ một nước đang phát triển nếu tỷ trọng nhập khẩu mặt hàng đó từ nước đang phát triển được đề cập chiếm không quá 3%, và tổng lượng nhập khẩu mặt hàng đó có xuất xứ từ tất cả các nước đang phát triển không quá 9%. Theo thỏa thuận cam kết của Việt Nam gia nhập WTO, trong vòng 12 năm (từ ngày 1-1-2007 tới ngày 31-12-2018) khi một nước nhập khẩu là Thành viên WTO quyết định áp thuế chống bán phá giá với hàng nhập khẩu từ Việt Nam, họ có quyền dựa trên chi phí sản xuất thực tế của Việt Nam hoặc sử dụng chi phí sản xuất của một quốc gia khác có điều kiện tương tự làm cơ sở tính toán mức phá giá, trợ cấp13. 2.5. THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Theo qui định của WTO, doanh nghiệp thương mại nhà nước (STE) là doanh nghiệp được Nhà nước dành cho những ưu đãi, quyền lợi đặc biệt so với các doanh nghiệp khác trong hoạt động xuất nhập khẩu. STE khác với doanh nghiệp quốc doanh ở chỗ vốn của loại hình doanh nghiệp này không hoàn toàn là sở hữu của Nhà nước mà bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào (quốc doanh, cổ phần, liên doanh, tư nhân, v.v…) đều có thể được hưởng đặc quyền của Nhà nước và do vậy đều có thể gọi là STE. Điều XVII của GATT thừa nhận STE là những doanh nghiệp pháp lý cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, nhưng yêu cầu “khi thực hiện mua bán hàng hóa thông qua xuất khẩu hay nhập khẩu phải tuân thủ các nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử đã nêu trong Hiệp định này liên quan đến các biện pháp của Chính phủ tác động tới hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu của các doanh nghiệp tư nhân” và “những doanh nghiệp này khi tiến hành mua bán như vậy chỉ căn cứ vào các tiêu chí thương mại, và phải dành cho các doanh nghiệp của các Thành viên cơ hội thích hợp tham gia vào hoạt động mua bán này”. Ngoài ra, Điều XVII cũng yêu cầu các Thành viên thông báo các Thành viên khác “về những sản phẩm được nhập khẩu hoặc xuất khẩu từ 13 www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=38&sub=151&article=85565 - 26k - 111 lãnh thổ của mình” do các STE tiến hành nhưng sự thông báo này không có nghĩa là họ phải “tiết lộ các thông tin không phổ biến mà nếu được tiết lộ sẽ gây khó khăn cho việc thực thi pháp luật hay đi ngược lại lợi ích của cộng đồng hoặc gây tổn hại đến quyền lợi thương mại chính đáng của những doanh nghiệp nhất định”. WTO nhận thấy các biện pháp làm bóp méo thương mại có thể xảy ra như là kết quả từ thương mại nhà nước. Hai mối quan tâm cơ bản mà WTO đang xem xét trong các STE là: Các ưu tiên về độc quyền dành riêng cho STE cho phép họ có những hành vi phi cạnh tranh từ đó góp phần bóp méo thương mại; các hoạt động hay việc định giá của STE còn minh bạch có thể che đậy những vi phạm trong việc thực hiện các cam kết và nghĩa vụ của một quốc gia. Khi các nước Thành viên của WTO đang hướng tới việc áp dụng thuế nhập khẩu là công cụ chính sách thương mại duy nhất, thì các Thành viên WTO có thể cần phải cải thiện các qui định về hành vi phi cạnh tranh của các STE. Việc thiếu tính minh bạch trong công tác định giá và hoạt động của STE đã khiến một số Thành viên WTO bày tỏ mối quan ngại việc các Thành viên khác có thể sử dụng STE để lẩn tránh các cam kết ở Vòng Uruguay về trợ cấp xuất khẩu, tiếp cận thị trường và hỗ trợ trong nước. Thương mại nhà nước là một nội dung quan trọng trong các cuộc đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc cũng như các nước có nền kinh tế phụ thuộc STE tương tự. Sự không rõ ràng về thể chế thương mại của một số nước đang gia nhập mà ở đó STE đóng một vai trò chủ đạo trong hoạt động xuất nhập khẩu có thể che giấu những hàng rào nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu. Quy định về thương mại nhà nước thể hiện ở hai điểm: Thứ nhất, phải phù hợp với nguyên tắc chung về không phân biệt đối xử, tức là hoạt động mua hoặc bán phải căn cứ vào các yếu tố mang tính thương mại và phải dành cơ hội thích đáng cho doanh nghiệp nước ngoài được tham gia các hoạt động mua hoặc bán đó. Thứ hai, phải minh bạch, tức là phải thông báo cho các Thành viên WTO khác thông qua Hội đồng thương mại hàng hóa của WTO. Mỗi nước phải thông báo cho WTO tên các STE hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, các loại hàng hóa mà các doanh nghiệp này 112 kinh doanh và các thông tin khác (ở dạng điền vào mẫu cho sẵn). Các nước cũng phải thường xuyên rà soát để cung cấp thông tin cập nhật về hoạt động của các STE. Thương mại nhà nước có vị trí quan trọng hơn đối với ngành nông nghiệp nếu so với các ngành khác bởi vì nhiều quốc gia, bao gồm cả quốc gia phát triển và đang phát triển, coi đó là một công cụ thích hợp để đạt được các mục tiêu chính sách nông nghiệp trong nước, chẳng hạn như trợ giá cho người nông dân, khai thác tính kinh tế theo qui mô trong thu mua và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp chính, cũng như tăng cường an ninh lương thực. Theo cam kết của Việt Nam vào WTO, Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Việt Nam cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của doanh nghiệp nhà nước không phải là mua sắm chính phủ14. 2.6. CÁC QUI ĐỊNH KỸ THUẬT VỀ TIÊU CHUẨN SẢN PHẨM Trong thương mại, tiêu chuẩn làm cho người mua và người bán có thể dễ dàng hiểu nhau khi đàm phán về một mặt hàng5. Tuy nhiên, tiêu chuẩn cũng tạo ra những trở ngại nhất định. Do tồn tại nhiều loại tiêu chuẩn giữa các quốc gia, khu vực nên hàng hóa khi nhập khẩu vào một nước có thể bị bắt buộc phải theo những tiêu chuẩn của nước ấy. Vì vậy, hàng hóa có thể không bán được vào thị trường nước có tiêu chuẩn khắt khe (mặc dù đã được hưởng ưu đãi về thuế quan), hoặc phải tốn thêm chi phí để đáp ứng các tiêu chuẩn đó và mất thêm thời gian khi giao hàng để kiểm tra xem ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thị trường chứng khoán giáo trình đại học kiến thức marketing đề cương ôn tập công nghệ thông tin bài tập trắc nghiệmGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán: Phần 1 - PGS.TS. Bùi Kim Yến, TS. Thân Thị Thu Thủy
281 trang 971 34 0 -
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 570 12 0 -
2 trang 515 13 0
-
Giáo trình phân tích một số loại nghiệp vụ mới trong kinh doanh ngân hàng quản lý ngân quỹ p5
7 trang 470 0 0 -
52 trang 426 1 0
-
Top 10 mẹo 'đơn giản nhưng hữu ích' trong nhiếp ảnh
11 trang 309 0 0 -
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 298 0 0 -
293 trang 296 0 0
-
MARKETING VÀ QUÁ TRÌNH KIỂM TRA THỰC HIỆN MARKETING
6 trang 293 0 0 -
74 trang 292 0 0