HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 8
Số trang: 23
Loại file: pdf
Dung lượng: 423.65 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Từ thực tiễn thực thi Hiệp định TRIMs, các Hội nghị Bộ trưởng WTO liên tiếp sau đó đã bàn về vấn đề xây dựng nguyên tắc đàm phán về khung pháp lý đa phương cho đầu tư. Tuy nhiên, cho đến Hội nghị Doha, WTO mới đưa ra được Tuyên bố chung về vấn đề này, theo đó, WTO sẽ tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực nhằm giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi vừa tham gia hiệu quả, vừa có khả năng thực thi cơ chế...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 8 Kyrgyz, Latvia, Estonia, Jordan, Bulgaria, Mông Cổ, Albania, Oman, Georgia, Croatia, Đài Loan và Trung Quốc. Từ thực tiễn thực thi Hiệp định TRIMs, các Hội nghị Bộ trưởng WTO liên tiếp sau đó đã bàn về vấn đề xây dựng nguyên tắc đàm phán về khung pháp lý đa phương cho đầu tư. Tuy nhiên, cho đến Hội nghị Doha, WTO mới đưa ra được Tuyên bố chung về vấn đề này, theo đó, WTO sẽ tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực nhằm giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi vừa tham gia hiệu quả, vừa có khả năng thực thi cơ chế hợp tác đa phương về đầu tư. 12.5.2.2. Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan (CVA) Hiệp định CVA là một Hiệp định mang tính kỹ thuật cao và các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi gặp rất nhiều khó khăn trong thực thi do hạn chế về năng lực kỹ thuật, chuyên môn và thông tin. Đặc biệt, các Thành viên này rất hạn chế trong việc kiểm soát, chống gian lận thương mại qua giá. Để giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong việc thực thi Hiệp định CVA, Tuyên bố về “Các vấn đề và mối quan tâm liên quan tới việc thực thi” đã nhấn mạnh tại điều 8.3, về tầm quan trọng của hợp tác giữa cơ quan hải quan các nước trong đấu tranh chống gian lận thương mại bằng các quy định: “Khi cơ quan hải quan các nước nhập khẩu có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tính xác thực của giá khai báo, họ có thể tìm kiếm sự trợ giúp từ phía cơ quan hải quan của nước xuất khẩu trong việc kiểm tra trị giá hàng hóa liên quan. Trong khuôn khổ luật pháp quốc gia cho phép, nước xuất khẩu có nghĩa vụ hợp tác và hỗ trợ, bao gồm cả việc cung cấp thông tin về giá xuất khẩu của hàng hóa liên quan. Nước nhập khẩu phải bảo mật các thông tin này nhưng, được quyền sử dụng trong quá trình tiến hành các thủ tục tư pháp”. Quy định tại điều 8.3 nói trên sẽ giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thực thi Hiệp định CVA như tạo thêm kênh thu thập thông tin khi cần phải thẩm tra về trị giá hàng hóa khai báo. 425 12.6. MỞ RỘNG THÀNH VIÊN CỦA WTO 12.6.1. Trung Quốc gia nhập và ảnh hưởng đến WTO 12.6.1.1. Trung Quốc gia nhập WTO như thế nào? Trung Quốc gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, sau 13 năm đàm phán đầy ấn tượng. Trường hợp đàm phán để gia nhập WTO của Trung Quốc được coi là “trường hợp phức tạp nhất” trong hệ thống thương mại của WTO. Như phần trên đã trình bày, WTO ra đời trên cơ sở kế thừa GATT. Vào năm 1947, khi GATT ra đời, Trung Quốc là một trong số 23 nước đầu tiên gia nhập GATT tại Vòng đàm phán Geneva (xem bảng 12.1) với tư cách là Thành viên sáng lập GATT. Tuy nhiên, Trung Quốc lại không trở thành Thành viên sáng lập WTO như Cuba – một nước cho đến nay vẫn là Thành viên đang phát triển có nền kinh tế chuyển đổi (như Trung Quốc). Điều này được giải thích bởi tình hình phức tạp trong nền chính trị của nước này. Ngày 01/10/1949, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ra đời do Mao chủ tịch lãnh đạo và đi theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phi thị trường do Đảng Cộng sản kiểm soát. Tàn quân Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã chạy sang Đài Loan. Ngày 06/03/1950, Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã nhận được thông báo từ Đài Loan rằng “Trung Quốc” rút ra khỏi GATT. Việc rút lui này có giá trị từ 05/05/1950 bất chấp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không công nhận tính hợp lệ của việc rút lui này vì cho rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phải được công nhận là chính quyền thừa kế hợp pháp ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại chưa bao giờ là “bên ký kết ban đầu” của GATT, trong khi đó, Chính phủ Quốc dân Đảng là bên ký kết ban đầu và cũng là bên gửi thông báo xin rút khỏi GATT sau đó. Cuộc tranh cãi về việc có sự tồn tại một nước Trung Quốc hay hai nước Trung Quốc đã kéo dài trong phạm vi GATT với nhiều quan điểm khác nhau. Về phía mình, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hầu như không có vai trò gì trong GATT kể từ sau khi có đơn xin rút lui của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan. 426 Tháng 01/1965, các Thành viên của GATT đã cho phép Đài Loan tham gia GATT với tư cách là quan sát viên. Trước sự việc này, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, với tư cách là ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an của Liên hiệp quốc, đã yêu cầu Đại Hội đồng Liên hiệp quốc xác lập các quyền của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc. Yêu cầu này đã được ủng hộ và năm 1971 Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thừa nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc. Trên cơ sở đó, GATT đã thu hồi tư cách quan sát viên của Đài Loan. Năm 1980, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gửi đơn tới Ban Thư ký của GATT xin được tham gia với tư cách là quan sát viên. Năm 1982, các Thành viên của GATT đã chấp nhận đơn của Trung Quốc. Kể từ đây, Trung Quốc bắt đầu quan sát các cuộc đàm phán của GATT, cho đến khi trở thành Thành viên của WTO vào ngày 11/12/2001. Một điểm phức tạp liên quan đến việc gia nhập của Trung Quốc vào WTO là tư cách Thành viên của Trung Quốc. Trung Quốc tự nhận mình là một nước đang phát triển để được hưởng quy chế đối xử S&D và GSP trong WTO. Hoa Kỳ thì lập luận rằng Trung Quốc phải gia nhập WTO với tư cách là Thành viên phát triển. EU thì cho rằng Trung Quốc có thể gia nhập WTO với một số điều kiện “mềm dẻo” hơn. Cuối cùng, vào năm 1996, Trung Quốc đã chấp nhận tư cách của mình không phải là một nước đang phát triển toàn diện mà chỉ được hưởng một số ít đãi ngộ đặc biệt liên quan đến thời gian chuyển đổi của khu vực công nghiệp100. 12.6.1.2. Ảnh hưởng của việc gia nhập của Trung Quốc đối với WTO Trung Quốc gia nhập WTO cũng sẽ có những ảnh hưởng tích cực nhất định đối với WTO. - Là một nước đông dân nhất thế giới, với sự thống nhất Đài Loan, Macao và Hồng Kông thành một nước Trung Hoa đại lục, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - TỰ VỆ NGOẠI LỆ TRONG WTO - TS. NÔNG QUỐC BÌNH - 8 Kyrgyz, Latvia, Estonia, Jordan, Bulgaria, Mông Cổ, Albania, Oman, Georgia, Croatia, Đài Loan và Trung Quốc. Từ thực tiễn thực thi Hiệp định TRIMs, các Hội nghị Bộ trưởng WTO liên tiếp sau đó đã bàn về vấn đề xây dựng nguyên tắc đàm phán về khung pháp lý đa phương cho đầu tư. Tuy nhiên, cho đến Hội nghị Doha, WTO mới đưa ra được Tuyên bố chung về vấn đề này, theo đó, WTO sẽ tăng cường hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực nhằm giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi vừa tham gia hiệu quả, vừa có khả năng thực thi cơ chế hợp tác đa phương về đầu tư. 12.5.2.2. Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan (CVA) Hiệp định CVA là một Hiệp định mang tính kỹ thuật cao và các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi gặp rất nhiều khó khăn trong thực thi do hạn chế về năng lực kỹ thuật, chuyên môn và thông tin. Đặc biệt, các Thành viên này rất hạn chế trong việc kiểm soát, chống gian lận thương mại qua giá. Để giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong việc thực thi Hiệp định CVA, Tuyên bố về “Các vấn đề và mối quan tâm liên quan tới việc thực thi” đã nhấn mạnh tại điều 8.3, về tầm quan trọng của hợp tác giữa cơ quan hải quan các nước trong đấu tranh chống gian lận thương mại bằng các quy định: “Khi cơ quan hải quan các nước nhập khẩu có cơ sở hợp lý để nghi ngờ tính xác thực của giá khai báo, họ có thể tìm kiếm sự trợ giúp từ phía cơ quan hải quan của nước xuất khẩu trong việc kiểm tra trị giá hàng hóa liên quan. Trong khuôn khổ luật pháp quốc gia cho phép, nước xuất khẩu có nghĩa vụ hợp tác và hỗ trợ, bao gồm cả việc cung cấp thông tin về giá xuất khẩu của hàng hóa liên quan. Nước nhập khẩu phải bảo mật các thông tin này nhưng, được quyền sử dụng trong quá trình tiến hành các thủ tục tư pháp”. Quy định tại điều 8.3 nói trên sẽ giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thực thi Hiệp định CVA như tạo thêm kênh thu thập thông tin khi cần phải thẩm tra về trị giá hàng hóa khai báo. 425 12.6. MỞ RỘNG THÀNH VIÊN CỦA WTO 12.6.1. Trung Quốc gia nhập và ảnh hưởng đến WTO 12.6.1.1. Trung Quốc gia nhập WTO như thế nào? Trung Quốc gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, sau 13 năm đàm phán đầy ấn tượng. Trường hợp đàm phán để gia nhập WTO của Trung Quốc được coi là “trường hợp phức tạp nhất” trong hệ thống thương mại của WTO. Như phần trên đã trình bày, WTO ra đời trên cơ sở kế thừa GATT. Vào năm 1947, khi GATT ra đời, Trung Quốc là một trong số 23 nước đầu tiên gia nhập GATT tại Vòng đàm phán Geneva (xem bảng 12.1) với tư cách là Thành viên sáng lập GATT. Tuy nhiên, Trung Quốc lại không trở thành Thành viên sáng lập WTO như Cuba – một nước cho đến nay vẫn là Thành viên đang phát triển có nền kinh tế chuyển đổi (như Trung Quốc). Điều này được giải thích bởi tình hình phức tạp trong nền chính trị của nước này. Ngày 01/10/1949, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ra đời do Mao chủ tịch lãnh đạo và đi theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phi thị trường do Đảng Cộng sản kiểm soát. Tàn quân Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã chạy sang Đài Loan. Ngày 06/03/1950, Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã nhận được thông báo từ Đài Loan rằng “Trung Quốc” rút ra khỏi GATT. Việc rút lui này có giá trị từ 05/05/1950 bất chấp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không công nhận tính hợp lệ của việc rút lui này vì cho rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phải được công nhận là chính quyền thừa kế hợp pháp ở Trung Quốc. Tuy nhiên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại chưa bao giờ là “bên ký kết ban đầu” của GATT, trong khi đó, Chính phủ Quốc dân Đảng là bên ký kết ban đầu và cũng là bên gửi thông báo xin rút khỏi GATT sau đó. Cuộc tranh cãi về việc có sự tồn tại một nước Trung Quốc hay hai nước Trung Quốc đã kéo dài trong phạm vi GATT với nhiều quan điểm khác nhau. Về phía mình, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hầu như không có vai trò gì trong GATT kể từ sau khi có đơn xin rút lui của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan. 426 Tháng 01/1965, các Thành viên của GATT đã cho phép Đài Loan tham gia GATT với tư cách là quan sát viên. Trước sự việc này, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, với tư cách là ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an của Liên hiệp quốc, đã yêu cầu Đại Hội đồng Liên hiệp quốc xác lập các quyền của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc. Yêu cầu này đã được ủng hộ và năm 1971 Đại Hội đồng Liên hiệp quốc thừa nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc. Trên cơ sở đó, GATT đã thu hồi tư cách quan sát viên của Đài Loan. Năm 1980, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã gửi đơn tới Ban Thư ký của GATT xin được tham gia với tư cách là quan sát viên. Năm 1982, các Thành viên của GATT đã chấp nhận đơn của Trung Quốc. Kể từ đây, Trung Quốc bắt đầu quan sát các cuộc đàm phán của GATT, cho đến khi trở thành Thành viên của WTO vào ngày 11/12/2001. Một điểm phức tạp liên quan đến việc gia nhập của Trung Quốc vào WTO là tư cách Thành viên của Trung Quốc. Trung Quốc tự nhận mình là một nước đang phát triển để được hưởng quy chế đối xử S&D và GSP trong WTO. Hoa Kỳ thì lập luận rằng Trung Quốc phải gia nhập WTO với tư cách là Thành viên phát triển. EU thì cho rằng Trung Quốc có thể gia nhập WTO với một số điều kiện “mềm dẻo” hơn. Cuối cùng, vào năm 1996, Trung Quốc đã chấp nhận tư cách của mình không phải là một nước đang phát triển toàn diện mà chỉ được hưởng một số ít đãi ngộ đặc biệt liên quan đến thời gian chuyển đổi của khu vực công nghiệp100. 12.6.1.2. Ảnh hưởng của việc gia nhập của Trung Quốc đối với WTO Trung Quốc gia nhập WTO cũng sẽ có những ảnh hưởng tích cực nhất định đối với WTO. - Là một nước đông dân nhất thế giới, với sự thống nhất Đài Loan, Macao và Hồng Kông thành một nước Trung Hoa đại lục, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
thị trường chứng khoán giáo trình đại học kiến thức marketing đề cương ôn tập công nghệ thông tin bài tập trắc nghiệmGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán: Phần 1 - PGS.TS. Bùi Kim Yến, TS. Thân Thị Thu Thủy
281 trang 972 34 0 -
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 570 12 0 -
2 trang 515 13 0
-
Giáo trình phân tích một số loại nghiệp vụ mới trong kinh doanh ngân hàng quản lý ngân quỹ p5
7 trang 470 0 0 -
52 trang 426 1 0
-
Top 10 mẹo 'đơn giản nhưng hữu ích' trong nhiếp ảnh
11 trang 309 0 0 -
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 298 0 0 -
293 trang 297 0 0
-
MARKETING VÀ QUÁ TRÌNH KIỂM TRA THỰC HIỆN MARKETING
6 trang 295 0 0 -
74 trang 293 0 0