Thông tin tài liệu:
TÌNH TRẠNG BẤT ỔN SAU CHIẾN TRANHQuá trình chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình thực sự là hỗn độn. Sự bùng nổ kinh tế sau chiến tranh diễn ra cùng với giá tiêu dùng leo thang. Các công đoàn lao động vốn không hề có cuộc đình công nào trong chiến tranh nay bắt đầu có những đòi hỏi quan trọng về việc làm. Mùa hè năm 1919, một số cuộc nổi loạn sắc tộc đã xuất hiện, phản ánh nỗi lo sợ đối với sự nổi lên của phong trào người da đen mới - tức là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HOA KỲ - TÌNH TRẠNG BẤT ỔN SAU CHIẾN TRANH TÌNH TRẠNG BẤT ỔN SAU CHIẾN TRANH Quá trình chuyển tiếp từ chiến tranh sang h òa bình thực sự là hỗn độn. Sự bùngnổ kinh tế sau chiến tranh diễn ra cùng với giá tiêu dùng leo thang. Các công đoànlao động vốn không hề có cuộc đình công nào trong chiến tranh nay bắt đầu cónhững đòi hỏi quan trọng về việc làm. Mùa hè năm 1919, một số cuộc nổi loạn sắctộc đã xuất hiện, phản ánh nỗi lo sợ đối với sự nổi lên của phong trào người da đenmới - tức là những người đã tham gia quân ngũ hoặc đã di cư lên phía Bắc để làmviệc trong các ngành công nghiệp chiến tranh. Những sự kiện này xảy ra đồng thời với mối lo ngại trên khắp nước Mỹ về mộtphong trào cách mạng quốc tế mới xảy ra. Năm 1917, người Bôn-sê-vích đã thâutóm quyền lực ở nước Nga. Sau chiến tranh, họ đã thực hiện thành công các cuộccách mạng ở Đức và Hungari. Đến năm 1919, dường như họ đã đến nước Mỹ. Noitheo những tấm gương Bôn-sê-vích, nhiều quân nhân Mỹ của Đảng Xã hội đãđứng ra thành lập Đảng Cộng sản ở nước Mỹ. Tháng 4/1919, cơ quan bưu điện đãngăn chặn được hơn 40 trái bom gửi tới địa chỉ của các quan chức cao cấp. Nơi ởcủa Tổng Chưởng lý A. Mitchell Palmer tại Washington cũng bị đánh bom. Để trảđũa, Palmer đã cho phép các toán quân liên bang được phép thu thập hồ sơ về cácphần tử cấp tiến nổi tiếng và trục xuất những phần tử không phải là công dân Mỹ.Những cuộc vây ráp này đã làm tổn thương nhiều nhân vật cấp tiến và được mô tảnhư những phát súng mở màn cho một cuộc thanh trừng. Những lời cảnh báo ghê gớm của Palmer đã châm ngòi cho mối kinh sợ bọn Đỏ,nhưng nỗi lo sợ này cũng đã lắng xuống vào giữa những năm 1920. Ngay cả cuộcđánh bom Phố Wall vào tháng 9 cũng không làm mối lo ngại đó trở lại. Tuy nhiên,từ năm 1919 trở đi, một làn sóng đối đầu về quân sự đối với chủ nghĩa cộng sảncách mạng đã ngấm ngầm chảy trong cuộc sống của người dân nước Mỹ. NỀN KINH TẾ THỊNH VƯỢNG TRONG THẬP NIÊN 20 Tổng thống Wilson, quá bận tâm về những lo toan chiến tranh và sau đó lại bịđột quỵ, đã xử lý các vấn đề sau chiến tranh rất tồi. Nền kinh tế tăng trưởng mạnhmẽ đã bắt đầu suy sụp vào giữa những năm 1920. Các đảng viên Đảng Cộng hòatranh cử chức Tổng thống và Phó Tổng thống là Warren G. Harding và CalvinCoolidge đã dễ dàng đánh bại các ứng viên của Đảng Dân chủ đối lập là James M.Cox và Franklin D. Roosevelt. Sau sự phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 19 trong Hiến pháp Mỹ, lần đầutiên, phụ nữ Mỹ đã được quyền tham gia bầu cử tổng thống. Hai năm đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của Hardings là thời gian đất nướcvẫn trong tình trạng suy thoái kinh tế vốn đã bắt đầu dưới thời Wilson. Tuy nhiên,năm 1923, sự thịnh vượng đã quay trở lại. Trong sáu năm sau đó, nước Mỹ đã cómột nền kinh tế thịnh vượng nhất trong lịch sử, ít nhất là đối với các khu đô thị.Các chính sách kinh tế của chính phủ trong những năm 1920 vẫn mang tư tưởngbảo thủ rõ rệt. Những chính sách này dựa trên quan điểm cho rằng nếu chính phủkhuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển thì hầu hết các tầng lớp dân cưkhác đều sẽ được hưởng những lợi ích từ sự phát triển đó. Đảng Cộng hòa đã cố gắng tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho ngànhcông nghiệp Hoa Kỳ. Đạo luật Thuế quan Fordney-McCumber năm 1922 và Đạoluật Hawley-Smoot năm 1930 đã đẩy các hàng rào quan thuế lên tới mức cao hơnnhằm đảm bảo cho các nhà sản xuất Mỹ một vị thế độc quyền hết trong lĩnh vựcnày tới lĩnh vực khác trên thị trường nội địa. Nhưng những đạo luật này cũng đãcản trở thương mại lành mạnh với châu Âu - một hoạt động thương mại lẽ ra đã cóthể thúc đẩy kinh tế thế giới. Đạo luật Smoot - Hawley ra đời vào giai đoạn đầucủa cuộc Đại suy thoái đã châm ngòi cho hàng loạt hành động trả đũa của cácquốc gia công nghiệp khác, khiến thương mại quốc tế suy giảm nghiêm trọng vàđẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn suy thoái sâu sắc hơn. Chính phủ Liên bang cũng đã bắt đầu một chương trình cắt giảm thuế, điều nàyphản ánh chủ trương của Bộ trưởng Tài chính Andrew Mellon cho rằng mức thuếthu nhập và thuế doanh nghiệp cao sẽ ngăn cản đầu tư vào các doanh nghiệp côngnghiệp mới. Quốc hội đã ủng hộ những đề xuất của ông bằng hàng loạt các điềuluật được thông qua trong khoảng thời gian từ 1921 đến 1929. “Công việc chính của người Mỹ là kinh doanh - ông Calvin Coolidge đã tuyênbố như vậy. Ông là vị Phó Tổng thống, sinh ra ở Vermont, đã kế nhiệm năm 1923sau khi Tổng thống Harding qua đời. Sau đó, ông đã chính thức được bầu làm tổngthống trong cuộc bầu cử năm 1924. Coolidge đã công kích các chính sách kinh tếbảo thủ của Đảng Cộng hòa, nhưng ông là một nhà quản lý có năng lực hơn so vớiHarding yếu kém, vì chính phủ của ông này đã bị buộc tội tham nhũng trongnhững tháng trước khi ông qua đời. Trong suốt những năm 1920, các doanh nghiệp tư nhân đã nhận được sự khuyếnkhích lớn từ phía chính phủ, bao gồm các khoản vay xây dựng, các hợp đồng vậnchuyển thư tín có lợi và những khoản trợ c ...