Lâu nay, trong lĩnh vực hội họa ở Việt Nam, khi nói về họa sĩ này, họa sĩ nọ, nhiều người vẫn rất "hồn nhiên" trong sự đánh giá : "ồ đó chỉ là một tay nghiệp dư có gì đáng nói", hay "Đó mới là một tay chuyên nghiệp!". Sự đánh giá này, thường chỉ căn cứ vào một trong hai khía cạnh: một là họa sĩ đã được đào tạo qua trường lớp chính quy; hai là họa sĩ hoạt động trong lĩnh vực hội họa một cách "chuyên nghiệp" - tức lấy vẽ làm hoạt động...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Họa sĩ chuyên nghiệp
Họa sĩ chuyên nghiệp (*)
Nguyên Hưng
Lâu nay, trong lĩnh vực hội họa ở Việt Nam, khi nói về họa sĩ này, họa
sĩ nọ, nhiều người vẫn rất hồn nhiên trong sự đánh giá : ồ đó chỉ là
một tay nghiệp dư có gì đáng nói, hay Đó mới là một tay chuyên
nghiệp!. Sự đánh giá này, thường chỉ căn cứ vào một trong hai khía
cạnh: một là họa sĩ đã được đào tạo qua trường lớp chính quy; hai là
họa sĩ hoạt động trong lĩnh vực hội họa một cách chuyên nghiệp - tức
lấy vẽ làm hoạt động chủ yếu và sống được bằng tranh.
Tranh Nguyễn Gia Trí
Định nghĩa hóa nói trên gắn liền với sự đánh giá, định giá, thậm chí
thái độ trọng thị hay rẻ rúng. Đó là một sai lầm. Nó cản trở tầm nhìn,
đã đành. Nó còn làm thiên lệch các cảm nhận về giá trị trong hội họa.
Điều này, khi trở thành phổ biến, có tác dụng chi phối như một định
kiến chung thì tác hại sẽ là sự trì trệ, của nền mỹ thuật. Với quan niệm
họa sĩ chuyên nghiệp là họa sĩ được đào tạo hẳn hoi, người ta rất dễ
không nhìn thấy những giá trị thật của các tài năng bột phát, và rất dễ
đẩy các họa sĩ trường lớp đến chỗ an tâm với nhiều ngộ nhận. Không ít
họa sĩ chỉ thấy được giá trị hội họa qua các khía cạnh hình thức như kỹ
thuật, sự cân bằng thị giác về bố cục, về màu sắc; vẽ như một thói quen
và theo đuổi những mục đích bên ngoài nghệ thuật - có thể là kinh tế,
chính trị. Với quan niệm họa sĩ chuyên nghiệp là họa sĩ hoạt động trong
lãnh vực hội họa một cách chuyên nghiệp thì thường người ta có
khuynh hướng đánh đồng mọi cấp độ giá trị nghệ thuật - có những họa
sĩ làm việc nhiều, tài hoa nữa là khác, nhưng vẽ tranh thực tế là quá
trình nhân bản vô tính một số mô típ hình thức thủ đắc từ sự tìm
kiếm, so lọc bên ngoài.
Nói chung, vấn đề họa sĩ chuyên nghiệp chỉ có ý nghĩa tương đối
trong cái nhìn xã hội học. Trong nghệ thuật, nó không cần phải được
đặt ra. Lịch sử hội họa cho thấy có rất nhiều tên tuổi không hề qua
trường lớp và có rất nhiều họa sĩ lưu danh muôn thuở với điều kiện
sáng tác ở mức tối thiểu.
Nghệ thuật là chuyện của tâm hồn. Không ai có thể nói là họa sĩ này,
họa sĩ nọ đã biểu đạt những xung động nội tâm của mình một cách
chuyên nghiệp. Vấn đề chỉ là có hay không một khả năng biểu đạt, ở
đâu và lúc nào cũng vậy, tầm cỡ của một họa sĩ là tùy vào ý thức sáng
tạo, vào chiều sâu nhân cách, vào sự độc đáo của cách nhìn, cách biểu
hiện, chứ không phải mức độ cái “đẹp” được thể hiện. Tất nhiên để có
được khả năng biểu đạt mọi họa sĩ đều phải tu luyện. Sự thật, ở khía
cạnh này, việc được đào tạo chính quy không hề đối lập với sự tự đào
tạo. Nhiều khi ở người tự học, tính tự giác cao, tầm nhìn thông thoáng
và có phương pháp, sự tiếp thu lại nhuần nhuyễn hơn, do đó có khả
năng quyền biến, tự do hơn.
Xoáy vào đề tài cũ kỹ này, tôi có làm một việc thừa không? Có thể.
Nhưng thử nhìn lại toàn cảnh nền mỹ thuật Việt Nam hiện tại hẳn thấy
cái quan niệm lệch lạc kia đang có tác dụng chi phối. Số lượng hội viên
hội mỹ thuật tăng nhanh chưa hề có. Và chất lượng mỹ thuật vẫn cứ ở
mức tầm tầm - có thật nhiều tranh “đẹp” nhưng lại quá ít tranh làm lay
động tâm hồn, và hiếm hoi hơn nữa những bức tranh có ý nghĩa khai
phóng cho một cách nhìn, một tầm nhìn nào đó. Nói chung, có quá ít
họa sĩ vẽ tranh như một sự cởi mở, biểu hiện mang tính chất nội tại.