“Nghệ thuật giúp tôi can đảm hơn” (1) Bởi lẽ “Suốt cuộc đời sáng tác, tôi đi cùng chiến tranh, triền miên trong nỗi sợ chiến tranh …” (2) . Đây là lời phát biểu của họa sĩ Huỳnh Phương Đông, một trong số nhiều họa sĩ luôn được nhắc đến khi nói về ký họa miền Nam trong thời kỳ kháng chiến HUỲNH PHƯƠNG ĐÔNG-Chiến chống Mỹ cứu nước. khu rừng Sác - Lụa, 80x60cm Họa sĩ Huỳnh Phương Đông tên thật là Huỳnh Công Nhãn, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1925 tại Gia Định. Với năng khiếu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HOẠ SĨ HUỲNH PHƯƠNG ĐÔNG NGHỆ THUẬT TỪ TẤM LÒNG
HOẠ SĨ HUỲNH PHƯƠNG
ĐÔNG NGHỆ THUẬT TỪ TẤM
LÒNG
“Nghệ thuật giúp tôi can đảm
hơn” (1) Bởi lẽ “Suốt cuộc đời
sáng tác, tôi đi cùng chiến tranh,
triền miên trong nỗi sợ chiến tranh
…” (2) . Đây là lời phát biểu của
họa sĩ Huỳnh Phương Đông, một
trong số nhiều họa sĩ luôn được
nhắc đến khi nói về ký họa miền
Nam trong thời kỳ kháng chiến
HUỲNH PHƯƠNG ĐÔNG-Chiến chống Mỹ cứu nước.
khu rừng Sác - Lụa, 80x60cm
Họa sĩ Huỳnh Phương Đông tên
thật là Huỳnh Công Nhãn, sinh ngày 22 tháng 4 năm 1925 tại Gia Định.
Với năng khiếu hội họa từ nhỏ, do đó khi lớn lên ông đã thi vào trường
vẽ Gia Định để thực hiện thiên hướng nghệ thuật của mình. Nhìn lại
toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Ông, chúng ta có thể nhận
ra rằng: Ông đã đến với nghệ thuật bằng cả hai tấm lòng. Đó là tinh
thần yêu nước và trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với dân tộc và
nghề nghiệp. Có lẽ với hai yếu tố này mà nghệ thuật đã trở thành điểm
tựa kiên định, bền bỉ giúp Ông vượt qua những quãng đường dài đầy
chông gai, thử thách để tạo nên một con người họa sĩ – chiến sĩ Huỳnh
Phương Đông.
Không phải ngẫu nhiên mà chàng trai trẻ Huỳnh Công Nhãn vừa hoàn
thành khóa học 1940 – 1945 ở Trường Vẽ Gia Định lại cùng những
đồng môn như Hoàng Trầm, Nguyễn Đức Gia, Trần Trung Hiếu lại rời
chốn đô thành để vào chiến khu tham gia kháng chiến. Niềm đam mê
nghiệp vẽ của Ông đang bị giằng xé trước thực trạng đau lòng của đất
nước, trước sự xâm lược tàn bạo của kẻ thù, xóm làng xơ xác, tiêu điều,
nhân dân lầm than, đói khổ. Ông nói: “Tôi không thể chịu được nỗi
thống khổ của nhân dân. Tôi đã chứng kiến quá nhiều tình cảnh đau
thương, khổ ải. Tôi thấy bao người chết đói, bao người không quần,
không áo, bao người chết vì bom đạn. Lý do chính tôi tham gia cách
mạng là như vậy …” (3). Tình cảm đơn giản của Ông đến với cách
mạng là sự đồng cảm với nỗi thống khổ của đồng bào, là để góp một
phần năng lực nhỏ bé của mình để bảo vệ tổ quốc. Và cũng chính trên
con đường dấn thân làm cách mạng, Nghệ thuật – niềm đam mê vốn có
của Ông đã dần dần tỏa sáng. Từ việc viết biểu ngữ, truyền đơn, tham
gia hoạt động đấu tranh ngay trong lòng địch ở thời kỳ chống Pháp đến
khi tập kết ra miền Bắc vào năm 1954, có điều kiện thuận lợi được học
tập chính quy để nâng cao kiến thức nghề nghiệp chuyên môn và cũng
như lần đầu được học ở Trường Vẽ Gia Định năm nào; vừa hoàn thành
xong khóa học, Ông lại quay về miền Nam khi cuộc đấu tranh chống
Mỹ ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt để cùng các đồng nghiệp, các
chiến sĩ Giải phóng quân và nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà. Đây là thời điểm mà con người họa sĩ –
chiến sĩ Huỳnh Phương Đông được khắc họa đậm nét nhất. Ông tham
gia trọng trách phó Trưởng phòng hội họa giải phóng thuộc Ban Tuyên
huấn trung ương cục miền Nam. Năm 1964, Ông mở lớp đào tạo 6
tháng để bồi dưỡng kiến thức mỹ thuật cho anh em có năng khiếu hội
họa ở các tỉnh Nam bộ tập trung về; Góp phần xây dựng lực lượng mỹ
thuật phục vụ nhu cầu chính trị cấp thiết của chiến trường miền Nam
lúc bấy giờ. Hơn thế nữa, Ông đã sát cánh cùng đồng đội trực tiếp tham
gia nhiều trận đánh và chống càn ở Bà Rịa, Bình Giã, Tây Ninh, Lộc
Ninh, Phước Long, Long An, Tiền Giang, ấp Bắc, Bến Tre, Củ Chi, Sài
Gòn, JUNCTION CITY …. Những khoảnh khắc điển hình nhất , trung
thực nhất, sinh động nhất, hiện thực nhất về sự khốc liệt của chiến tranh
ở chiến trường Nam bộ đã được Ông ký họa ngay tại mặt trận với một
xúc cảm mãnh liệt, chân thành. Từ những sự kiện như Giải phóng Bến
Tre (bột màu trên giấy, năm 1965), Giải phóng nhà tù Phan Thiết (màu
nước, chì và than chì trên giấy, năm 1968), Trận đánh phía bắc tỉnh
Long An (bột màu trên giấy, năm 1970), Xe tăng của Mỹ sau chiến
dịch JUNCTION CITY” (bột màu trên giấy, năm 1967), Kế hoạch tác
chiến trận Bình Giã (màu nước trên giấy, năm 1967), Trận đánh cầu
chữ Y (than chì và màu nước trên giấy, năm 1968) … đến hình tượng
chân dung cụ thể những người thật, việc thật của anh Giải phóng quân,
chị giao liên, Bà mẹ Việt Nam anh hùng … đã là những tư liệu sống vô
cùng quý giá cho nền mỹ thuật cách mạng Việt Nam.
Ông nói: “Khi treo những bức tranh này lên tôi thấy chúng là nhân
chứng của cuộc chiến trên đất nước mình. Nhiều bạn bè của tôi hồi đó
là những chàng trai, những cô gái còn rất trẻ, nhưng họ vô cùng dũng
cảm trên chiến trường. Tôi có trách nhiệm gìn giữ kỷ niệm về họ. Bởi
vì tôi không thể chịu đựng được ý nghĩ là đánh mất những bức họa của
đồng đội. Tôi hiểu rằng nghĩa vụ thiêng liêng đối với đồng đội đã cho
tôi sức mạnh, ý chí để sống, để vượt qua những ...