Đọc bài "Gặp gỡ Thái Bá Vân" của Trịnh Cung đăng trên Kiến thức gia đình (số 80 ra ngày 18/05/1998) đến mẫu đối thoại sau cùng, tôi thực sự hết sức ngạc nhiên. Trịnh Cung hỏi "Ngoài quan niệm - không có một bức tranh đúng, sai, không có bài thơ xấu, tốt mà chỉ có một bức tranh đẹp, và khi đến đẹp thì chân, thiện đã nằm đầy đủ và hồn nhiên trong đó - Anh cần nói thêm một điều gì với giới mỹ thuật để kết thúc cuộc gặp gỡ..." Thái Bá Vân trả...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Họa sĩ, Kẻ sáng tạo nên mình ...
Họa sĩ, Kẻ sáng tạo nên mình ...
(*)
Nguyên Hưng
Tranh Nguyễn Sáng
Đọc bài Gặp gỡ Thái Bá Vân của Trịnh Cung đăng trên Kiến thức gia
đình (số 80 ra ngày 18/05/1998) đến mẫu đối thoại sau cùng, tôi thực
sự hết sức ngạc nhiên. Trịnh Cung hỏi Ngoài quan niệm - không có
một bức tranh đúng, sai, không có bài thơ xấu, tốt mà chỉ có một bức
tranh đẹp, và khi đến đẹp thì chân, thiện đã nằm đầy đủ và hồn nhiên
trong đó - Anh cần nói thêm một điều gì với giới mỹ thuật để kết thúc
cuộc gặp gỡ... Thái Bá Vân trả lời : Anh em mỹ thuật cần có suy nghĩ
theo hệ thống, phải vào hệ thống quốc tế, không thể tự lập ra hệ thống
suy nghĩ riêng. Tiêu chuẩn hóa suy nghĩ là cách nhập cuộc đích thực
(Nhấn mạnh bởi N.H.) Có thật Thái Bá Vân đã nói như vậy? Nếu đúng,
thì đó là một ý tưởng đáng...suy nghĩ!
Cần có suy nghĩ theo hệ thống - nên hiểu câu này như thế nào? Suy
nghĩ theo hệ thống chủ đề, đề tài nào đó? hay theo hệ thống lý luận,
phương pháp luận nào đó? hay đơn giản, suy nghĩ một cách mạch lạc -
có ngọn nguồn - suy nghĩ một cách nhất quán - có quan điểm có lập
trường riêng, nói cách khác, là suy nghĩ một cách xuyên suốt cắm rễ từ
thực tiễn cho đến hành động trên một tinh thần khoa học với nhân bản?
Những cách hiểu này có vẻ không khác gì nhau mấy - cái này nằm
trong cái kia – nhưng trong thực tế có một ý nghĩa to lớn đến bản thân
sự suy nghĩ, mà trước hết là ảnh hưởng quyết định đến sự học, sự tìm
đọc. Thái Bá Vân cho rằng phải vào hệ thống quốc tế. Lời khuyên
này giống như tung vào mắt các họa sĩ, đặc biệt là các họa sĩ trẻ, một
nắm bụi mù. Bởi vì, hệ thống quốc tế là hệ thống nào vậy? Nhân loại
xưa nay vẫn tồn tại rất nhiều hệ thống (từ cách suy nghĩ đến cái được
suy nghĩ đến thành quả của sự suy nghĩ...) khác nhau. Ngay trong thời
điểm hiện nay, nên hiểu thế nào là tiến bộ, là hiện đại, là phát triển
v.v...giữa các nước phương Nam và các nước phương Bắc, các nước
phương Đông và các nước phương Tây đã cãi nhau om sòm. Và, trước
nguy cơ thiếu điều đánh nhau vì những khác biệt người ta đành phải
ngồi lại với nhau ở diễn đàn Unesco chấp nhận một sự thật rằng mỗi hệ
thống đều đúng trong điều kiện của mình - Tất cả làm nên sự đa dạng.
Tóm lại, có lẽ chỉ ở trong lãnh vực khoa học chính xác mới có thể nói
được ít nhiều về hệ thống quốc tế tiêu chuẩn, còn trong lĩnh vực xã hội
và nhân văn, nói vậy, chẳng khác nào là chuyện mơ màng. Mà nếu
có, thì từ lâu nhân loại đã rơi vào thảm kịch của sự đồng nhất hóa và
nghèo nàn...
Con người ta xưa nay suy nghĩ là suy nghĩ tự mình, từ thân phận, bằng
tâm tính với vốn liếng kinh nghiệm, kiến thức được tích lũy. Đối với
các họa sĩ, nếu cần có một lời khuyên (xin lỗi), thì đó, không gì khác
hơn là phải tích lũy kiến thức một cách hệ thống - muốn thấy được cái
cơ bản phải có kiến văn rộng; Thêm nữa, muốn đạt đến sự tinh lọc - đặc
biệt với người nghệ sĩ - Không được chối bỏ thân phận mình. Lịch sử
nghệ thuật xưa nay đã chứng thực: có không ít nghệ sĩ hết sức quảng
bác nhưng không thành tựu được gì trong nghệ thuật. Lý do ở họ, có lẽ,
như người xưa nói: Tâm bất tại thị chi bất kiến, thính chi bất văn
(Thiếu một tinh thần tự tại thì có nhìn cũng không thấy, có nghe cũng
chẳng thông). Đó là một bi kịch.
Họa sĩ - đó là kẻ sáng tạo nên mình. Và sự sáng tạo này, cần hiểu, trước
hết là phát hiện thân phận họa sĩ trong mình. Mỗi họa sĩ thực sự đều là
một sự nhóm họp -nhóm họp tiềm thức cộng thông liên lũy của nền văn
hóa - mẹ với ý thức đồng đại. Trong ý nghĩa đó, sự hồn nhiên sáng tạo
của người họa sĩ biến mỗi tác phẩm của họ tự nhiên có được giá trị
sống còn với ý nghĩa nhân loại tính cụ thể hóa...
Nền văn hóa Việt Nam, đặc biệt là ở thời hiện đại, có một bề nổi phức
tạp với đủ các hệ thống giao khai. Nói cách khác, nền hội họa Việt
Nam hiện đại ra đời và phát triển trong một môi trường lẫn lộn các yếu
tố tinh túy với ô nhiễm lợi dụng lẫn nhau trong bối cảnh thực tế. Mơ
màng người ta sẽ chạy theo đủ các khuynh hướng, các trường phái, các
chủ nghĩa v.v... như những kẻ mộng du. Điều này đã và đang là thực tế.
Rất dễ nhận thấy là càng ngày ở các họa sĩ càng ít có sự dấn thân với trí
tuệ nhân ái tự thân.
Điều quan trọng hơn đối với họa sĩ Việt Nam hiện tại chắc chắn không
phải là tiêu chuẩn hóa suy nghĩ mà cần bắt đầu bằng sự tự thanh lọc
tâm linh - chữa các căn bệnh cận thị hoặc viễn thị bởi các loại vi-
rút, vi-trùng triết học...hay loạn thị bởi các hoang tưởng về một thứ
chủ nghĩa thế giới không đáy nào đó... Nietzsche đã hoàn toàn có lý khi
nói: Quan tâm đến chân lý, nghệ sĩ là một yếu đuối luân lý hơn là tư
tưởng gia.
Cái cần hơn ở người nghệ sĩ là ở chỗ có được tự tâm trong suốt, thảo
ngay. Bởi, chỉ có tự tâm thì mới có thể thấy được hiện tượng, sự vật
đúng như chính nó - tự tâm là tấm gương bản lai trong vắt vô tâm, vô
dục có thể soi thấu sự thật một cách rõ ràng, trung thực; chỉ có tự tâm
thì mới có thể thành ý, bởi vì, chỉ có cái tâm chân thực thì mới có thể
rung cảm được theo cái tiết điệu uyên nguyên của vũ trụ - nhân sinh -
phải có tấm lòng trong sáng vô ngần như cụ Tiên Điền Nguyễn Du thì
mới có thể rung động mãnh liệt đến thế trước Những điều trông thấy
mà đau đớn lòng; chỉ có tự tâm, thì mới có thể nhạy cảm trước cuộc
đời, trước số phận và tâm hồn con người; chỉ có tự tâm thì mới có thể
dũng cảm dám là mình trong tất cả mọi ngóc ngách của tâm hồn mình,
và, dám nói tiếng nói trung thực của con người, cho dù đó có thể là một
thách thức đối với số phận của bản thân; chỉ có tự tâm thì mới có sự
sáng suốt đích thực, nó là sự thanh lọc các thiên kiến, định kiến, các qui
luật ràng buộc áp đặt cũng như các tham vọng, dục vọng tư riêng - bản
lĩnh đánh giá chỉ có một điểm tựa duy nhất ấy; tự tâm, ấy là điều kiện
của tài năng nghệ thuật – tư tưởng sẽ lóe sáng và cảm xúc sẽ trào dâng
từ đó. Nói văn tức là người là nói trên tầng ý nghĩa ấy. Bởi, qua sự lựa
chọn đề tài, qua thái độ thẩm mỹ, qua cảm xúc, tư tưởng, qua khát vọng
bộc lộ trong tác phẩm, tác giả đã phơi ...