Hoàng Diệu
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 160.69 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hoàng Diệu ( 1828 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử ViệtNam, người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882, Xuất thân Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự là Quang Viễn, hiệu Tỉnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1828), trong một gia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam[1]). Gia đình ông có 7 anh em và họ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàng Diệu Hoàng Diệu Hoàng Diệu ( 1828 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử ViệtNam,người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882, Xuất thân Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự làQuang Viễn, hiệu Tỉnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1828), trong mộtgia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh QuảngNam (nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam[1]). Gia đình ông có 7 anh em và họđều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng. Sử chép rằng gia đình HoàngDiệu có một người đỗ phó bảng, ba người đỗ cử nhân, hai người tú tài trong các kỳ thidưới thời vua Tự Đức. Một trong những hậu duệ của ông hiện tại là nhà toán họcHoàng Tụy. Sự nghiệp Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa MậuThân (1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoaQuý Sửu (1853), thời vua Tự Đức [2]. Năm 1851, ông được vua Tự Đức bổ nhiệmlàm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định). Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thânMiên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác.Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Trihuyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúchành quyết đã nghe Hồng Tập nói: Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghépvào tội phản nghịch. Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnhtâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. TựĐức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nóiHoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức PhanHuy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu[3]. Được phục chức sau vụ tẩy oan Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định,Bố chánh Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp vàan dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến. Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Thamtri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổilàm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay),nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làmTham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sungchức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ướcgiao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thưbộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính. Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tayngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệttruyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độdâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chướcphòng vị sẵn. Vua Tự Đức khen. Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lạitrách cứ lưu binh... vì sợ giặc... chế ngự không đúng cách (?) Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúngtrong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn ápở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêmyết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng HữuXứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay,cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quyđịnh cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu áicủa người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó. Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhấtcủa Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lạiquân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tựvẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay quân giặc. Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiềungười họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thànhra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm kháchsạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội). Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thânsinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy. Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của BộVăn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam. Quyết tử với Hà thành Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua TựĐức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Ngay khi tới Hà Nội HoàngDiệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từnăm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cốphòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế. Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đigiao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái BìnhThiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá HenriRivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy(trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệuđã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến,đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế. Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàng Diệu Hoàng Diệu Hoàng Diệu ( 1828 - 1882) là một quan nhà Nguyễn trong lịch sử ViệtNam,người đã quyết tử bảo vệ thành Hà Nội khi Pháp tấn công năm 1882, Xuất thân Hoàng Diệu tên thật là Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu, tự làQuang Viễn, hiệu Tỉnh Trai. Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm Mậu Tý (1828), trong mộtgia đình có truyền thống nho giáo tại làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh QuảngNam (nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam[1]). Gia đình ông có 7 anh em và họđều nổi tiếng là những người thông minh trong vùng. Sử chép rằng gia đình HoàngDiệu có một người đỗ phó bảng, ba người đỗ cử nhân, hai người tú tài trong các kỳ thidưới thời vua Tự Đức. Một trong những hậu duệ của ông hiện tại là nhà toán họcHoàng Tụy. Sự nghiệp Hoàng Diệu là người nổi bật nhất trong số các anh em trong gia đình. Năm 20tuổi ông đã đồng đỗ Cử nhân với anh trai Hoàng Kim Giám (khi ấy 23 tuổi) khoa MậuThân (1848) trong khoa thi Hương tại Thừa Thiên, năm 25 tuổi đỗ Phó bảng khoaQuý Sửu (1853), thời vua Tự Đức [2]. Năm 1851, ông được vua Tự Đức bổ nhiệmlàm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn (Bình Định). Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thânMiên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác.Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Trihuyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúchành quyết đã nghe Hồng Tập nói: Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghépvào tội phản nghịch. Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnhtâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. TựĐức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nóiHoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức PhanHuy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu[3]. Được phục chức sau vụ tẩy oan Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định,Bố chánh Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp vàan dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến. Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Thamtri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổilàm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay),nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làmTham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sungchức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ướcgiao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thưbộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính. Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tayngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệttruyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độdâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chướcphòng vị sẵn. Vua Tự Đức khen. Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lạitrách cứ lưu binh... vì sợ giặc... chế ngự không đúng cách (?) Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúngtrong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn ápở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêmyết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng HữuXứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay,cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quyđịnh cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu áicủa người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó. Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhấtcủa Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lạiquân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tựvẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay quân giặc. Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiềungười họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thànhra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm kháchsạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội). Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thânsinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy. Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của BộVăn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam. Quyết tử với Hà thành Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua TựĐức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Ngay khi tới Hà Nội HoàngDiệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từnăm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cốphòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế. Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đigiao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái BìnhThiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá HenriRivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy(trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệuđã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến,đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế. Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử việt nam danh nhân lịch sử danh nhân việt nam tiểu sử danh nhân tài liệu lịch sửGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 139 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 92 1 0 -
69 trang 68 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 56 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 53 0 0 -
11 trang 45 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 42 0 0 -
Nhật ký Anne Frank - Phần 11 T
6 trang 40 0 0 -
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 39 0 0 -
26 trang 39 0 0