Thông tin tài liệu:
Chúng ta đều biết rằng ngoài những vùng có chức năng giống nhau trên hai bán cầu đại não, mỗi bán cầu phụ trách một số chức năng khác nhau. Bán cầu ưu thế được coi là bán cầu đại não phụ trách các vấn đề ngôn ngữ, trong khi bán cầu không ưu thế lại phụ trách các vấn đề nhận thức, phối hợp và liên hệ các giác quan và các chức năng thần kinh cao cấp với nhau. Do đó, tổn thương trên mỗi bán cầu cũng tạo ra những khác biệt cần chú ý trên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội chứng bán cầu ưu thế và bán cầu không ưu thế Hội chứng bán cầu ưu thế và bán cầu không ưu thếChúng ta đều biết rằng ngoài những vùng có chức năng giống nhau trên hai báncầu đại não, mỗi bán cầu phụ trách một số chức năng khác nhau. Bán cầu ưu thếđược coi là bán cầu đại não phụ trách các vấn đề ngôn ngữ, trong khi bán cầukhông ưu thế lại phụ trách các vấn đề nhận thức, phối hợp và liên hệ các giác quanvà các chức năng thần kinh cao cấp với nhau. Do đó, tổn thương trên mỗi bán cầucũng tạo ra những khác biệt cần chú ý trên lâm sàng.A - Hội chứng bán cầu ưu thếBán cầu ưu thế là bán cầu chủ yếu chi phối cho chức năng lời nói và ngôn ngữ. Ởnhững người thuận tay phải, bán cầu ưu thế là bán cầu trái; trong khi ở nhữngngười thuận tay trái, bán cầu này khó xác định hơn; khoảng 60% những ngườithuận tay trái có bán cầu ưu thế là bán cầu trái, và 15% có vùng chức năng ngônngữ ở cả hai bán cầu.Hai biểu hiện chính của tổn thương chức năng trên bán cầu ưu thế là thất ngôn(aphasia, dysphasia) và vong hành (apraxia, dyspraxia).1. Thất ngônTổn thương nhồi máu ở rãnh Sylvian của bán cầu ưu thế là tổn thương có nhiềukhả năng gây thất ngôn nhất. Người ta phân loại thất ngôn thành hai nhóm: trôichảy và không trôi chảy. Trôi chảy được định nghĩa đơn giản là khả năng hìnhthành âm thanh dễ dàng. Thất ngôn không trôi chảy là loại thất ngôn bao gồm vấnđề trong việc hình thành âm thanh.Các nghiên cứu cho thấy nhiều bệnh nhân có tổn thương tại vùng phụ trách ngônngữ và lời nói lại chỉ bị thiếu sót ngôn ngữ ở mức độ nhẹ. Điều n ày gợi ý các cấutrúc sâu hơn đóng vai trò chủ yếu trong chức năng ngôn ngữ, cụ thể là đồi thị.a. Thất ngôn Broca (hay thất ngôn biểu đạt, thất ngôn h ành động) là loại thất ngôn,trong đó, chức năng hiểu ngôn ngữ viết và nói còn tốt, còn chức năng biểu đạtngôn ngữ viết hoặc nói bị tổn th ương. Vùng bị tổn thương bao gồm vùng insula vàfrontoparietal operculum.Đối với những bệnh nhân này, vấn đề thất ngôn có thể bị đánh giá nhầm là thấtngôn hoàn toàn nếu bác sĩ không sử dụng các kiểm tra đơn giản để kiểm tra chứcnăng hiểu. Ban đầu, tổn thương của bệnh nhân thường khó để phân biệt với thấtngôn hoàn toàn, và sau đó một thời gian, thất ngôn biểu đạt mới xuất hiện rõ ràngbên cạnh chức năng hiểu bình thường.b. Thất ngôn Wernicke (hay thất ngôn tiếp nhận, thất ngôn cảm giác) th ường gâyra do bít tắc nhánh thấp của động mạch não giữa hoặc một trong các nhánh của nó.Vùng bị tổn thương bao gồm hồi thái dương sau, hồi đỉnh dưới, và hồi thái dươngchẩm bên của bán cầu ưu thế.Khác với các bệnh nhân thất ngôn Broca, các bệnh nhân thất ngôn Wernicke nóitrôi chảy và có biểu cảm, nhưng họ bị rối loạn về mặt ngôn ngữ, bao gồm cấu trúcâm thanh biến dạng, dùng sai từ và dùng sai các hình vị. Câu nói của họ trôi chảynhưng thường thiếu các từ và ý chính. Bệnh nhân cũng có biểu hiện điếc từ đơnthuần (không thể lặp lại các từ) và mất khả năng nhận thức ngôn ngữ viết.c. Thất ngôn dẫn truyền thường được cho là do tổn thương đường dẫn truyền thầnkinh của arcuate fasciculus kết nối giữa vùng vận động và cảm giác liên quan tớichức năng lời nói. Tuy vậy, nếu dựa vào lí thuyết này, người ta không thể giảithích được trọn vnej đặc điểm tổn th ương của thất ngôn dẫn truyền. Việc phân biệtthất ngôn dẫn truyền là một vấn đề khó đối với bác sĩ.Bệnh nhân có thất ngôn dẫn truyền thường khó lặp lại các từ và cụm từ khôngquen thuộc, và khả năng hiểu ngôn ngữ nói và viết tốt hơn bệnh nhân thất ngônWernicke; các bệnh nhân thất ngôn dẫn truyền vẫn nhận biết được thiếu sót củamình và cố gắng tự sửa.Về mặt giải phẫu, tổn thương arcuate fasciculus đơn độc được cho là nguyên nhân,nhưng hiếm báo cáo ghi nhận điều này. Trên thực tế, các bệnh nhân thất ngôn dẫntruyền thường có 1 hoặc 2 ổ nhồi máu nông ở những bó thần kinh mới đ ược pháthiện gần đây.d. Thất ngôn mất ngữ pháp (agrammatism) là tình trạng bệnh nhân sử dụng cáccâu ngắn, đôi khi chỉ vài từ, để hình thành một ý.2. Vong hànhVong hành là tình trạng không thể làm một kĩ năng đã được học từ trước mặc dùcơ lực, thị lực và năng lực phối hợp hoàn toàn bình thường. Mohr nói về vonghành: Đó là tình trạng không thể truy cập hoặc bị mất các chương trình hànhđộng hướng dẫn các động tác đã trở thành kĩ năng. Thông thường, ít khi bệnhnhân bị vong hành hoàn toàn.a. Thường gặp nhất là vong hành ý niệm-hành động (ideomotor apraxia); người tacho rằng nó gây ra bởi sự mất liên lạc giữa vỏ não lưu trữ kế hoạch vận động vàvỏ não chịu trách nhiệm thực hiện vận động. Khi ra lệnh bằng lời nói, bệnh nhânkhông phối hợp hoặc không thể thực hiện các động tác đơn giản, ví dụ như mô tảlại việc sử dụng búa và đinh. Thông thường, bệnh nhân thực hiện các động tácthực tế chính xác hơn là các động tác mô tả. Thất ngôn và vong hành xảy ra độclập, và vỏ não chịu trách nhiệm lên kế hoạch cho hành động được cho là ở ...