Danh mục

HỘI CHỨNG CHÈN ÉP KÉP

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 123.89 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Năm 1973, trên tạp chí Lancet, Upton và McComas lần đầu tiên đưa ra khái niệm hội chứng chèn ép kép (double crush syndrome - DCS). Hội chứng này bao gồm một tổn thương các sợi thần kinh do căng kéo ở vịï trí gần gốc (gần trung tâm thân thể - proximal stretch), kết hợp với tổn thương do chèn ép của chính các sợi thần kinh ấy ở vị trí ngoại vi (peripheral entrapment neuropathy). Sau đó nhiều tác giả khác đã nghiên cứu và có những kết quả củng cố cho khái niệm hội chứng chèn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỘI CHỨNG CHÈN ÉP KÉP HỘI CHỨNG CHÈN ÉP KÉPMỞ ĐẦU:Năm 1973, trên tạp chí Lancet, Upton và McComas lần đầu tiên đưa ra khái niệmhội chứng chèn ép kép (double crush syndrome - DCS). Hội chứng này bao gồmmột tổn thương các sợi thần kinh do căng kéo ở vịï trí gần gốc (gần trung tâm thânthể - proximal stretch), kết hợp với tổn thương do chèn ép của chính các sợi thầnkinh ấy ở vị trí ngoại vi (peripheral entrapment neuropathy). Sau đó nhiều tác giảkhác đã nghiên cứu và có những kết quả củng cố cho khái niệm hội chứng chèn épkép. Vấn đề là tổn thương chèn ép 2 nơi ấy chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên của 2bệnh lý độc lập, hay giữa chúng có mối quan hệ nào ?. Gần đây có tác giả đề cậptới mối quan hệ nhân - quả giữa 2 vị trí tổn thương trong hội chứng này.II. HỘI CHỨNG CHÈN ÉP KÉP Ở TAY:Bao gồm một bệnh lý của rễ cổ (hoặc bệnh lý của đám rối cánh tay) kết hợp vớichèn ép (entraptment) của dây thần kinh ở phía ngoại vi. Thoạt đầu thuật ngữ hộichứng chèn ép kép là dùng để chỉ một bệnh lý rễ cổ (cervical radiculopathy,thường là C6-C7) phối hợp với hội chứng ống cổ tay. Về sau hội chứng này cũngbao gồm một tổn thương rễ C8-D1 với chèn ép dây trụ ở khuỷu tay. Hội chứngống cổ tay chúng tôi đã trình bày trong báo cáo tại Sinh hoạt khoa học của hội23/5/1997 (xem Tài liệu khoa học - Sinh hoạt khoa học kỹ thuật lần 2 - lưu hànhnội bộ của hội Thần kinh học TP HCM)2.1. Hội chứng lối thoát lồng ngực: Hội chứng lối thoát lồng ngực (thoracic outletsyndrome) là hội chứng tổn thương các mạch máu và có thể cả các dây thần kinh,định khu trong khu vực nằm giữa khoảng nền của cổ cho tới nách. Hội chứng nàydo nhiều nguyên nhân và các tài liệu cũng mô tả về hội chứng này rất kém rõ ràng.Nguyên nhân thông thường nhất là chèn ép ở khe giữa cơ bậc thang trước (anteriorscalene m.) với: xương sườn cổ do dị dạng, mỏm xương thừa lồi lên, hoặc dải xơnối mỏm ngang C7 với xương sườn 1.Lâm sàng: Có thể chỉ có biểu hiện mạch máu, hoặc chỉ biểu hiện thần kinh, hoặccả hai. Nếu chèn ép động mạch dưới đòn nặng gây hẹp tắc tại chỗ và giãn ở dướichỗ hẹp tắc, hậu quả là huyết khối và tắc mạch, có thể phải cắt cụt. nếu chèn épnhẹ thì bệnh nhân chỉ cảm thấy yếu và đau mơ hồ tay bên đó, kèm theo giảm nhiệtđộ và nhợt mầu da. Tĩnh mạch nách hoặc tĩnh mạch dưới đòn có thể bị chèn ép ởphía trước của cơ bậc thang trước. Lúc đó sẽ phù lan tỏa cả tay, kèm theo đau vàxanh tím tay, giãn tĩnh mạch ở vai và ngực trên. Những bệnh nhân có xương sườncổ có thể gây tổn thương thần kinh, và có biểu hiện lâm sàng ở khu vực phân bốcủa C8/D1 hay thân nhất dưới (lower trunk): mất cảm giác thuộc vùng của dây trụhoặc các dây da cánh tay hay cẳng tay trong (medial brachial - antebrachialcutaneus n.), teo các cơ nhỏ bàn tay thuộc khu vực phân bố của dây giữa. Bệnhnhân thường là phụ nữ trẻ, than phiền về đau và tê bì dọc theo mặt trong cẳng tayvà bàn tay. Cử động bàn tay trở nên vụng về kém khéo léo. Các triệu chứngthường chỉ ở một tay và không phải là tay thuận. Khám thực thể thấy các biểu hiệntổn thương rễ C8-D1 hay thân nhất dưới. Teo cơ ô mô cái thường rõ hơn teo cơ ômô út. Cũng có thể có teo cơ cẳng tay, bao gồm các cơ gấp dài (long flexors) củangón cái và của các ngón. Cũng có thể giảm cảm giác mặt trong cánh tay và bàntay. Chụp X quang cột sống cổ thấy một mỏm ngang C7 chồi lên, hoặc đôi khi (rấthiếm) thực sự có một xương sườn cổ. Khi phẫu thuật, thường thấy có một dải xơsợi bám từ mỏm ngang C7 (hoặc xương sườn cổ) tới xương sườn thứ nhất. Phầnphía ngoại vi của các sợi thần kinh thuộc rễ C8-D1, và đôi khi cả phần phía trungtâm thuộc thân nhất trên, bị kéo và gấp khúc tại dải xơ sợi này. Sau khi phẫu thuật,đa số bệnh nhân thuyên giảm triệu chứng, nhưng sức cơ khó trở về hoàn toàn bìnhthường được.Chẩn đoán điện: SNAP của dây giữa từ 3 ngón đầu là bình thường. Khi kích thíchdây trụ ở cổ tay, SNAP của dây trụ khi ghi ở ngón V có biên độ giảm nhưng thờigian tiềm bình thường. CMAP khi kích thích dây giữa ở cổ tay và ghi ở ô mô cáibiên độ giảm nhưng thời gian tiềm bình thường. Tốc độ dẫn truyền của dây trụ vàgiữa ở cẳng tay và cánh tay là bình thường. SNAP của dây thần kinh bì cẳng taytrong bất thường. Điện cơ kim phụ thuộc vào độ nặng của tổn thương. Khi bệnh đãlâu, thì dấu hiệu thông thường nhất là giảm kết tập với nhịp phóng điện nhanh, có(nhưng không nhiều) các MUAP biên độ cao và thời khoảng dài. Thường thấy cogiật sợi cơ (fibrillation) và sóng nhọn dương ở cơ dạng ngắn ngón cái và có thể ởcả các cơ thuộc dây trụ, hoặc các cơ khác do các rễ C8-D1 phân bố thần kinh.Sóng F có thể bất thường. Các SSEP không có giá trị gì nhiều, vì điện thế ghiđược ở tủy sống của người bình thường vốn cũng rất nhỏ.Cần chẩn đoán phân biệt với hội chứng ống cổ tay, tổn thương dây trụ ở khủy, tổnthương rễ cổ (phải điện cơ kim cơ cạnh sống), bệnh neuron vận động không điểnhình (SNAP phải bình thường), rỗng tủy, khối u thượng đòn...III. HỘI CHỨNG CHÈN ÉP KÉP Ở CHÂN:Bao gồm một bệnh lý rễ thắt lưng - cùng kết hợp với hội chứng chèn ép dây thầnkinh ngoại vi. Các bệnh lý rễ thắt lưng - cùng do thoát vị đĩa đệm là hay gặp nhất,thường gặp trong công tác hàng ngày, chúng tôi sẽ không mô tả ở đây. Chúng tôixin trình bày 2 hội chứng chèn ép ở ngoại vi, mà từ trước tới nay chúng ta ít để ýtới, đó là hội chứng ống cổ chân (tarsal tunnel syndrome - TTS), và hội chứng ốngcổ chân trước (anterior tarsal tunnel syndrome - ATTS).3.1 Hội chứng ống cổ chân:Ở khu vực cổ chân, dây thần kinh chầy sau (posterior tibial n.) đi phía sau mắt cátrong của xương chầy, rồi chui vào trong đường ống cổ chân (tarsal tunnel). Trầncủa ống cổ chân là mạc giữ cơ gấp bàn chân (flexor retinaculum), còn gọi là dâychằng vùng trong cổ chân (laciniate ligament). Dây chằng (mạc) này là do sự hòanhập của các cân nông và sâu của chân. Ở phía trước nó bám chặt vào mặt trước -trong của mắt cá trong, ở phía sau nó gắn vào củ ...

Tài liệu được xem nhiều: