Danh mục

Hội hoạ, luật chơi và những quy ước

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.05 MB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghệ thuật, từ ngàn xưa vẫn sử dụng những quy ước để làm cái gạch nối giữa người làm nghệ thuật và người thưởng thức nghệ thuật. Đó là những quy tắc nghệ thuật, mà người hoạ sĩ, hay nhà điêu khắc, tự đặt ra cho mình để sáng tác, và người thưởng thức nghệ thuật phải biết đến, để có thể hiểu và cảm thụ được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Nói rộng ra, sự đồng cảm và đồng thuận trong lãnh vực nghệ thuật, nếu có được là nhờ ở những quy ước. Bạn sẽ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hội hoạ, luật chơi và những quy ước Hội hoạ, luật chơi và những quy ước Văn Ngọc Nghệ thuật, từ ngàn xưa vẫn sử dụng những quy ước để làm cái gạch nối giữa người làm nghệ thuật và người thưởng thức nghệ thuật. Đó là những quy tắc nghệ thuật, mà người hoạ sĩ, hay nhà điêu khắc, tự đặt ra cho mình để sáng tác, và người thưởng thức nghệ thuật phải biết đến, để có thể hiểu và cảm thụ được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Nói rộng ra, sự đồng cảm và đồng thuận trong lãnh vực nghệ thuật, nếu có được là nhờ ở những quy ước. Bạn sẽ bảo : thế thì cũng chỉ là lô gich, có gì lạ đâu ? Trong xã hội, có cái gì mà không bị /được quy định bởi những quy ước ? Tuy nhiên, nếu trong một số lãnh vực sự đồng thuận có thể đạt được, một khi các điều kiện đã hội đủ, thì trong nghệ thuật điều này lại diễn ra một cách không dễ dàng, và nhất là nó rất bất trắc, không có gì là bảo đảm, bởi lẽ giá trị của một tác phẩm nghệ thuật không nằm ngay trong tác phẩm đó, mà tuỳ thuộc vào sự thẩm định của người nhìn ngắm nó, đánh giá nó, và sự phán đoán đó nhiều khi khác nhau giữa người này với người khác. Tác phẩm nghệ thuật không có một giá trị phổ biến, khách quan, như 2 cộng với 2 là 4, hay như một quy luật trong khoa học tự nhiên. Giá trị của nó chỉ nằm trong quan hệ giữa người nghệ sĩ sáng tạo ra nó và người thưởng thức, nói rộng ra là cộng đồng xã hội. Nhưng quan hệ này không phải lúc nào cũng suôn sẻ, tốt đẹp. Sự thẩm định nghệ thuật của quần chúng thường bị lèo lái bởi những người cầm chịch trong lãnh vực văn hoá, đặc biệt khi họ muốn bảo vệ một quan điểm nghệ thuật chính thống nào đó. Cũng như, càng ngày nó càng bị khuynh đảo bởi những kẻ đầu cơ, vụ lợi, coi tác phẩm nghệ thuật như một hàng hoá. Dẫu sao, cái đẹp, cái thật, của một tác phẩm nghệ thuật, trong bất cứ phong cách nào, trường phái nào, từ khi có lịch sử nghệ thuật đến nay, đều được thẩm định dựa trên những quy tắc và tiêu chuẩn đã được sự đồng thuận trước hết trong giới làm nghệ thuật. Người thưởng thức nghệ thuật, muốn nhận biết được cái hay, cái dở, của tác phẩm, phải biết những quy tắc đó. Bởi chúng là những cái chìa khoá để tìm hiểu cái cách diễn đạt và ý nghĩa đôi khi sâu kín của một tác phẩm, và nói rộng ra, của một phong cách. Vô hình trung, cái quy ước giữa người làm nghệ thuật và người thưởng thức nghệ thuật, cũng như giữa những người thưởng thức nghệ thuật với nhau, giúp cho họ có được một sụ đồng cảm và đồng thuận trước một tác phẩm nghệ thuật. Xã hội Ai Cập cổ đại, cách đây hơn 4000 năm, chắc hẳn đã có ý thức rõ rệt về những khái niệm này , vì họ đã là những người đầu tiên sử dụng các quy ước, đặc biệt là trong nghệ thuật phù điêu và hội hoạ. Mâm quả - Phù điêu Ai Cập (đầu thiên niên kỷ II tr. C.N.) Quy ước cho phép trình bày các vật thể nằm ngang bằng cách dựng chúng lên một mặt bằng thẳng đứng. Quy ước này sẽ được lấy lại trong các nền nghệ thuật ở các thời sau này, đặc biệt là trong nền hội hoạ hiện đại, bắt đầu từ Cézanne. Người Hy Lạp cổ đại cũng đã từng sử dụng một số quy ước của người Ai Cập trong hội hoạ, song trong lãnh vực kiến trúc, họ đã sáng tạo ra những quy ước khá chặt chẽ, ngay từ thế kỷ VII - VI tr. C.N., đặc biệt trong các công trình tôn giáo : đối với họ, một ngôi đền chỉ đạt được vẻ đẹp cổ điển khi nào nó được thiết kế và xây dựng theo đúng các kích thước và tỷ lệ cổ điển. Nói chung, trong các nền văn hoá cổ đại, từ các dân tộc ở vùng Địa Trung Hải , Lưỡng Hà, v.v. cho đến các dân tộc ở phương Đông, nghệ thuật đã tuân theo những quy tắc và quy ước mà con người tự đặt ra cho mình ngay từ sớm. Người Trung Quốc cổ đại cũng đã từng có những quy ước khá tinh vi dành cho hội hoạ ngay từ thế kỷ V trước Công nguyên (Kinh Dịch). Cơ sở triết lý của các quy ước Ở Âu châu, mãi đến thế kỷ XVIII, các triết gia mới bắt đầu có những phân tích khoa học về cái lý do sâu xa khiến cho con người bó buộc phải có những quy ước để diễn đạt và để hiểu nhau, nhất là trong lãnh vực nghệ thuật, mà cốt lõi là vấn đề xác định vai trò của chủ thể . Một vài triết gia ở đầu thế kỷ XVIII đã đưa ra một số ý kiến về vấn đề này, đặc biệt là Jean-Pierre de Crousaz (1715) môn đệ của Descartes, và David Hume, triết gia Anh (1757), song người suy nghĩ triệt để nhất trên vấn đề này là Kant, triết gia người Đức (1724-1804). Thời của Kant là thời mà cái tôi-chủ thể, đang lên ngôi, từ sau những phát hiện triết học, chủ yếu của Descartes ở thế kỷ XVII (Discours de la Méthode- Diễn từ về phương pháp luận, 1637). Song song với những tư tưởng triết học mới mẻ và vô cùng quan trọng này, phong cách barốc và lãng mạn trong nghệ thuật cũng đang đà nở rộ và chiếm ưu thế ở khắp Âu châu, áp đảo hoàn toàn chủ nghĩa cổ điển, mà những quy ước quá nghiêm khắc đã phần nào gò bó óc tưởng tượng của người nghệ sĩ trong một thời gian dài. Về kiến trúc, chỉ cần nêu lên hai thí dụ : Cung điện Versailles và cung điện Louvres, ở Pháp. Đó là những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần cổ điển Pháp, nặng tính chất mực thước, và thiếu óc tưởng tượng, do đó không t ...

Tài liệu được xem nhiều: