![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Hợp nhân nóng (Phần 2)
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 181.85 KB
Lượt xem: 3
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Dự đoán công suất cao tại ITER Câu hỏi kĩ thuật thách thức nhất mà cộng đồng nhiệt hạch phải đối mặt là xác định thời gian xem thời gian giam cầm là bao nhiêu và làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo nó sẽ đạt tới 3,5 – 4 s.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hợp nhân nóng (Phần 2) Hợp nhân nóng – Phần 2 Dự đoán công suất cao tại ITER Câu hỏi kĩ thuật thách thức nhất mà cộng đồng nhi ệt hạch phải đối mặt là xácđịnh thời gian xem thời gian giam cầm là bao nhiêu và làm thế nào chúng ta có thểđảm bảo nó sẽ đạt tới 3,5 – 4 s. Chúng ta biết rằng sự tổn thất nhiệt từ các plasmagiam cầm bằng từ được điều khiển bởi sự nhiễu loạn quy mô nhỏ. Sự nhiễu loạn đógồm các thăng giáng mật độ plasma và trường điện từ gây ra ít nhiều cuộn xoáycủa dòng plasma. Các thăng giáng nhiễu loạn về cơ bản là những sóng âm khôngbền bị chi phối bởi gradient nhiệt độ trong plasma. Giống như sự đối lưu trongchảo nước, các xoáy vận chuyển plasma nóng ra và plasma lạnh vào. Sự tiến bộtrong việc cải thiện hiệu suất tokamak trong 40 năm qua thu được bằng cách làmtriệt tiêu ngày một tốt hơn sự đối lưu loạn của nhiệt và do đó làm tăng τE. Mộttrong những thành tựu khoa học của thập niên vừa qua là khả năng tính ra nhiễuloạn này, sử dụng các máy tính hiệu suất cao cung cấp các chương trình mô phỏngtiên tiến (hình 4). Các so sánh chi tiết giữa các mô phỏng và các phép đo cho thấy trong nhiềutrường hợp, các phép tính thật sự đã chộp chính xác cơ sở động lực học phức tạpấy. Tuy nhiên, vẫn còn có thêm cải tiến, đặc biệt trong những trường hợp đang gâyhào hứng, trong đó nhiễu loạn được mô phỏng hầu như hoàn toàn triệt tiêu mất. Líthuyết phân tích của sự nhiễu loạn này thật phức tạp và hiện nay người ta chỉ mớibắt đầu tìm hiểu. Tuy nhiên, kiến thức định tính của sự vận chuyển xoáy hỗn độncó thể thu được từ một lập luận đơn giản dựa trên đặc điểm của các sóng âmkhông bền tạo ra các cấu trúc xoáy đó. Lập luận này mang lại ước tính τE = L3B2T–3/2 , trong đó L là kích cỡ của dụng cụ,B là cảm ứng từ và T là nhiệt độ của nó. Rõràng dụng cụ càng lớn sẽ tiến hành công việc tốt hơn do sự tỉ lệ lũy thừa L3. Thậtvậy, sự tỉ lệ theo lối kinh nghiệm suy ra từ nhiều thí nghiệm chỉ khác chút ít vớiước tính đơn giản trên. Thời gian giam cầm năng lượng của ITER được dự đoántheo hai cách: thứ nhất, bằng cách ngoại suy từ các máy móc hiện có sử dụng sự tỉlệ theo lối kinh nghiệm; thứ hai, sử dụng các mô hình vận chuyển cục bộ phức tạpsuy ra từ các mô phỏng. Những tiên đoán này được kì vọng là rất chính xác, vớithời gian giam cầm trong ngưỡng 3,5 – 4 s. Tiên đoán này là cơ sở cho sự tin tưởngcủa chúng ta rằng ITER sẽ đạt tới chế độ plasma cháy tự làm nóng. Chúng ta có thểcó một cảm nhận định tính cho sự ngoại suy trên sử dụng sự tỉ lệ kiểu quãngđường ngẫu nhiên đơn giản: JET thu được thời gian giam cầm τE ~ 0,5–1 s và do đóITER (đại thể to hơn gấp đôi, nóng hơn 30% và có từ trường lớn hơn chừng 30%)sẽ có thời gian giam cầm τE~ 4 s. Kĩ thuật phủ chăn Với kiến thức hiện nay của chúng ta, hợp lí hơn là hãy giả sử ITER sẽ đạt tớimục tiêu plasma cháy của nó vào giữa thập niên 2020. Tuy nhiên, như mọi kĩ sưđều biết, việc xây dựng một nhà máy điện thương mại thường mất nhiều công sứchơn là chỉ đơn giản chứng minh một mẫu thiết kế có thể hoạt động trên các nguyênlí khoa học. Thật vậy, một số bộ phận của bất kì lò phản ứng nhiệt hạch tương lainào – đặc biệt là các hệ nhân giống tritium từ lithium (phản ứng thứ hai trong hình1) và biến đổi năng lượng neutron thành điện năng – cho đến nay vẫn chưa đượckiểm tra ở bất kì quy mô nào. Các neutron sinh ra trong các phản ứng deuterium –tritium, chúng mang bốn phần năm năng lượng nhiệt hạch, chưa được giam giữbởi từ trường và do đó rời khỏi plasma và đi qua thành bao xung quanh. Bên trongthành bao, phải có một hệ phức tạp hấp thụ các neutron trên, trích xuất nhiệt và“nhân giống” tritium từ lithium – thành bao này được gọi là “chăn phủ”. Có nhiều mẫu chăn nhưng chúng đều có một vài điểm chung: chúng thườngdày 0,5 – 1 m, cách li với plasma bằng một thành thép và bọc phía ngoài bằng mộtlá chắn thép. Lớp chăn đó chứa lithium, chúng hấp thụ neutron từ sự nhiệt hạch đểnhân giống tritium (hình 1), sau đó cho tritium vào trong plasma làm nhiên liệu.Cũng có mặt trong lớp chăn là các bộ nhân neutron và một chất làm nguội dùng đểtrích lấy tritium và nhiệt lượng, cái cần thiết để cấp nguồn cho một tuabin và sảnxuất ra điện năng. Lớp chăn đó phải thỏa mãn một số yêu cầu cơ bản: để có giá trị về mặt kinhtế, nó phải hoạt động ổn định ở nhiệt độ cao trogn một môi trường neutron gay gắttrong nhiều năm; và để tự cung cấp tritium, nó phải nhân giống lượng tritiumnhiều hơn lượng do các phản ứng nhiệt hạch tiêu thụ. Các công nghệ chăn, cũngnhư thành bao, đang trở thành chủ đề chính của chương trình nhiệt hạch và sẽ tiêubiểu cho nhiều tính chất thông minh đi cùng với sự nhiệt hạch thương mại. Nhữngcông nghệ hệ lò phản ứng này là cần thiết cho một nền kinh tế nhiệt hạch trongtương lai – chúng ta không thể chờ đến các kết quả của ITER để bắt đầu phát triểnchúng. Một điều kiện tiên quyết cho một hệ chăn-thành bao hợp lí là các vật liệu cósức bền. Các vật ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hợp nhân nóng (Phần 2) Hợp nhân nóng – Phần 2 Dự đoán công suất cao tại ITER Câu hỏi kĩ thuật thách thức nhất mà cộng đồng nhi ệt hạch phải đối mặt là xácđịnh thời gian xem thời gian giam cầm là bao nhiêu và làm thế nào chúng ta có thểđảm bảo nó sẽ đạt tới 3,5 – 4 s. Chúng ta biết rằng sự tổn thất nhiệt từ các plasmagiam cầm bằng từ được điều khiển bởi sự nhiễu loạn quy mô nhỏ. Sự nhiễu loạn đógồm các thăng giáng mật độ plasma và trường điện từ gây ra ít nhiều cuộn xoáycủa dòng plasma. Các thăng giáng nhiễu loạn về cơ bản là những sóng âm khôngbền bị chi phối bởi gradient nhiệt độ trong plasma. Giống như sự đối lưu trongchảo nước, các xoáy vận chuyển plasma nóng ra và plasma lạnh vào. Sự tiến bộtrong việc cải thiện hiệu suất tokamak trong 40 năm qua thu được bằng cách làmtriệt tiêu ngày một tốt hơn sự đối lưu loạn của nhiệt và do đó làm tăng τE. Mộttrong những thành tựu khoa học của thập niên vừa qua là khả năng tính ra nhiễuloạn này, sử dụng các máy tính hiệu suất cao cung cấp các chương trình mô phỏngtiên tiến (hình 4). Các so sánh chi tiết giữa các mô phỏng và các phép đo cho thấy trong nhiềutrường hợp, các phép tính thật sự đã chộp chính xác cơ sở động lực học phức tạpấy. Tuy nhiên, vẫn còn có thêm cải tiến, đặc biệt trong những trường hợp đang gâyhào hứng, trong đó nhiễu loạn được mô phỏng hầu như hoàn toàn triệt tiêu mất. Líthuyết phân tích của sự nhiễu loạn này thật phức tạp và hiện nay người ta chỉ mớibắt đầu tìm hiểu. Tuy nhiên, kiến thức định tính của sự vận chuyển xoáy hỗn độncó thể thu được từ một lập luận đơn giản dựa trên đặc điểm của các sóng âmkhông bền tạo ra các cấu trúc xoáy đó. Lập luận này mang lại ước tính τE = L3B2T–3/2 , trong đó L là kích cỡ của dụng cụ,B là cảm ứng từ và T là nhiệt độ của nó. Rõràng dụng cụ càng lớn sẽ tiến hành công việc tốt hơn do sự tỉ lệ lũy thừa L3. Thậtvậy, sự tỉ lệ theo lối kinh nghiệm suy ra từ nhiều thí nghiệm chỉ khác chút ít vớiước tính đơn giản trên. Thời gian giam cầm năng lượng của ITER được dự đoántheo hai cách: thứ nhất, bằng cách ngoại suy từ các máy móc hiện có sử dụng sự tỉlệ theo lối kinh nghiệm; thứ hai, sử dụng các mô hình vận chuyển cục bộ phức tạpsuy ra từ các mô phỏng. Những tiên đoán này được kì vọng là rất chính xác, vớithời gian giam cầm trong ngưỡng 3,5 – 4 s. Tiên đoán này là cơ sở cho sự tin tưởngcủa chúng ta rằng ITER sẽ đạt tới chế độ plasma cháy tự làm nóng. Chúng ta có thểcó một cảm nhận định tính cho sự ngoại suy trên sử dụng sự tỉ lệ kiểu quãngđường ngẫu nhiên đơn giản: JET thu được thời gian giam cầm τE ~ 0,5–1 s và do đóITER (đại thể to hơn gấp đôi, nóng hơn 30% và có từ trường lớn hơn chừng 30%)sẽ có thời gian giam cầm τE~ 4 s. Kĩ thuật phủ chăn Với kiến thức hiện nay của chúng ta, hợp lí hơn là hãy giả sử ITER sẽ đạt tớimục tiêu plasma cháy của nó vào giữa thập niên 2020. Tuy nhiên, như mọi kĩ sưđều biết, việc xây dựng một nhà máy điện thương mại thường mất nhiều công sứchơn là chỉ đơn giản chứng minh một mẫu thiết kế có thể hoạt động trên các nguyênlí khoa học. Thật vậy, một số bộ phận của bất kì lò phản ứng nhiệt hạch tương lainào – đặc biệt là các hệ nhân giống tritium từ lithium (phản ứng thứ hai trong hình1) và biến đổi năng lượng neutron thành điện năng – cho đến nay vẫn chưa đượckiểm tra ở bất kì quy mô nào. Các neutron sinh ra trong các phản ứng deuterium –tritium, chúng mang bốn phần năm năng lượng nhiệt hạch, chưa được giam giữbởi từ trường và do đó rời khỏi plasma và đi qua thành bao xung quanh. Bên trongthành bao, phải có một hệ phức tạp hấp thụ các neutron trên, trích xuất nhiệt và“nhân giống” tritium từ lithium – thành bao này được gọi là “chăn phủ”. Có nhiều mẫu chăn nhưng chúng đều có một vài điểm chung: chúng thườngdày 0,5 – 1 m, cách li với plasma bằng một thành thép và bọc phía ngoài bằng mộtlá chắn thép. Lớp chăn đó chứa lithium, chúng hấp thụ neutron từ sự nhiệt hạch đểnhân giống tritium (hình 1), sau đó cho tritium vào trong plasma làm nhiên liệu.Cũng có mặt trong lớp chăn là các bộ nhân neutron và một chất làm nguội dùng đểtrích lấy tritium và nhiệt lượng, cái cần thiết để cấp nguồn cho một tuabin và sảnxuất ra điện năng. Lớp chăn đó phải thỏa mãn một số yêu cầu cơ bản: để có giá trị về mặt kinhtế, nó phải hoạt động ổn định ở nhiệt độ cao trogn một môi trường neutron gay gắttrong nhiều năm; và để tự cung cấp tritium, nó phải nhân giống lượng tritiumnhiều hơn lượng do các phản ứng nhiệt hạch tiêu thụ. Các công nghệ chăn, cũngnhư thành bao, đang trở thành chủ đề chính của chương trình nhiệt hạch và sẽ tiêubiểu cho nhiều tính chất thông minh đi cùng với sự nhiệt hạch thương mại. Nhữngcông nghệ hệ lò phản ứng này là cần thiết cho một nền kinh tế nhiệt hạch trongtương lai – chúng ta không thể chờ đến các kết quả của ITER để bắt đầu phát triểnchúng. Một điều kiện tiên quyết cho một hệ chăn-thành bao hợp lí là các vật liệu cósức bền. Các vật ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu vật lý vật lý phổ thông giáo trình vật lý bài giảng vật lý đề cương vật lýTài liệu liên quan:
-
Giáo trình Vật lý đại cương A2: Phần 2 - ThS. Trương Thành
78 trang 126 0 0 -
Giáo trình hình thành ứng dụng điện thế âm vào Jfet với tín hiệu xoay chiều p2
10 trang 71 0 0 -
Giáo trình giải thích việc nôn mửa do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích p10
5 trang 66 0 0 -
Giáo trình hình thành đặc tính kỹ thuật của bộ cánh khuấy Mycom trong hệ số truyền nhiệt p2
5 trang 60 0 0 -
Giáo trình Vật lý phân tử và nhiệt học: Phần 1
54 trang 48 0 0 -
Giáo trình hình thành nguyên lý ứng dụng hệ số góc phân bố năng lượng phóng xạ p4
10 trang 47 0 0 -
Bài giảng Vật lý lớp 10: Chương 4 - Các định luật bảo toàn
6 trang 44 0 0 -
Bài giảng Vật lý 2 - Trường ĐH Võ Trường Toản
88 trang 43 0 0 -
Giáo trình giải thích việc nôn mửa do phản xạ hoặc do trung khu thần kinh bị kích thích p3
5 trang 43 0 0 -
13. TƯƠNG TÁC GIỮA HAI DÒNG ĐIỆN THẲNG SONG SONG. ĐỊNH NGHĨA ĐƠN VỊ AM-PE
4 trang 42 0 0