Thông tin tài liệu:
Kỳ I: Những rào cản trong điều trị đái tháo đường týp I hiện nayBN rất khó tuân thủ chế độ điều trị tích cực nghiêm ngặt Kiểm soát chặt đường máu là cực kỳ cần thiết để phòng ngừa hoặc kiểm soát sự tiến triển của bệnh và các biến chứng ĐTĐ. Tuy nhiên, phương pháp này có tính khả thi thấp do đòi hỏi người bệnh phải tiêm insulin 3-4 mũi mỗi ngày và thử đường máu nhiều lần (3-6 lần/ngày). Kèm theo là chế độ ăn kiêng và tập luyệnrất nghiêm ngặt. Đây thực sự là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hướng mới điều trị bệnh đái tháo đường týp 1 Hướng mới điều trị bệnh đái tháo đường týp 1 Insulin tiêm không có tác dụng như insulin sinh lý. Kỳ I: Những rào cản trong điều trị đái tháo đường týp I hiện nay BN rất khó tuân thủ chế độ điều trị tích cực nghiêm ngặt Kiểm soát chặt đường máu là cực kỳ cần thiết để phòng ngừa hoặc kiểmsoát sự tiến triển của bệnh và các biến chứng ĐTĐ. Tuy nhiên, phương pháp nàycó tính khả thi thấp do đòi hỏi người bệnh phải tiêm insulin 3-4 mũi mỗi ngày vàthử đường máu nhiều lần (3-6 lần/ngày). Kèm theo là chế độ ăn kiêng và tập luyệnrất nghiêm ngặt. Đây thực sự là những yêu cầu rất khó cho các BN ĐTĐ, nhất làđối tượng BN trẻ em, BN nghèo và BN có trình độ thấp. Điều trị tích cực thường hay gây ra các cơn hạ đường máu Càng cố gắng điều trị đưa đường máu về càng gần mức bình thường thìnguy cơ bị hạ đường máu càng cao. Đáng lưu ý là có nhiều yếu tố làm mờ cáctriệu chứng của hạ đường máu nặng khiến BN dễ bị hôn mê do đường máu quáthấp và làm tăng nguy cơ bị tử vong như BN có biến chứng thần kinh, bị bệnh lâungày đã bị hạ đường máu nhiều lần, có dùng các thuốc nhóm chẹn beta giao cảm(điều trị tăng HA, bệnh tim)... Insulin tiêm không có tác dụng giống như insulin sinh lý Tiêm insulin dưới da không tạo được nồng độ insulin trong máu giống nhưsinh lý bình thường, đó là thay đổi nồng độ liên tục tùy theo mức đường máu hiệnhành. Nhược điểm thứ 2 là tiêm insulin là cách đưa insulin vào máu ngoại biênchứ không phải là qua tĩnh mạch cửa (ở gan) như bình thường nên không thể làmgiảm nhanh lượng đường do gan sản xuất ra. Nhược điểm thứ 3 là do không đi quatĩnh mạch cửa nên insulin tiêm vào sẽ làm tăng nồng độ insulin ở các mô ngoạibiên, đặc biệt tại thời điểm ngoài bữa ăn. Hậu quả làm tăng nguy cơ bị các biếnchứng tim mạch do ĐTĐ giống như tình trạng cường insulin ở các BN ĐTĐ týp 2. Do tiêm dưới da nên có tình trạng nồng độ insulin quá cao lúc đói nhưng lạithấp (không đủ) để kiểm soát đường máu quanh và sau các bữa ăn. Người ta đãchứng minh được là tăng đường máu sau bữa ăn gây biến chứng tim mạch cònnhiều hơn so với tăng đường máu lúc đói. Các biến chứng ĐTĐ không được phát hiện và điều trị sớm Không chỉ ở BN ĐTĐ týp 2, nhiều nghiên cứu phát hiện BN ĐTĐ có nguycơ bị biến chứng mạch máu lớn và mạch máu nhỏ ngay khi đường máu ở dướingưỡng phải điều trị (đường máu đói > 7 mmol/l và HbA1C < 7%). Ngoài ra,nhiều BN có các biến chứng ĐTĐ từ trước khi có triệu chứng lâm sàng hoặc đượcchẩn đoán nên hiệu quả điều trị thường bị hạn chế. Hiện nay, các trường hợp cótăng đường máu lúc đói (> 6,1 nhưng < 7 mmol/l) hoặc rối loạn dung nạp glucosecũng được coi là có nguy cơ gây biến chứng tim mạch giống như ĐTĐ và cần phảiđiều trị rồi. Điều trị kiểm soát tối ưu đường máu thường rất tốn kém Mục tiêu đường máu tối ưu ở BN ĐTĐ là đường máu lúc đói < 6,7 mmol/l,đường máu sau ăn 2h < 9 mmol/l và HbA1C < 6,5%. Để điều trị tốt một BN ĐTĐcần rất nhiều nguồn lực như nhân lực (đội ngũ bác sĩ, y tá, chuyên gia dinh dưỡng,chuyên gia tâm lý...) và tài chính... mà các nguồn lực này không phải luôn sẵn có ởcác nước như Việt Nam. Hướng mới trong phòng bệnh ĐTĐ týp 1 Liệu pháp gen: Nhằm mục đích phòng ngừa, điều trị có hiệu quả và cứu chữa các BN ĐTĐtýp 1, các nhà khoa học đã nỗ lực nghiên cứu nhằm phát hiện các gen tương tácvới gen gây bệnh và cơ chế gây bệnh. Tuy nhiên do ĐTĐ týp 1 là bệnh đa gen nênmặc dù đã có một số kết quả ban đầu rất khả quan nhưng trong thời gian tới liệupháp gen vẫn chưa thể áp dụng được trong lâm sàng. Liệu pháp miễn dịch: ĐTĐ týp 1 là bệnh tự miễn nên các nhà khoa học đã tiến hành một số thửnghiệm lâm sàng phòng ngừa tiên phát bệnh ĐTĐ để đánh giá hiệu quả của cácđiều chỉnh miễn dịch liệu có thể phòng ngừa được bệnh ĐTĐ týp 1 ở những ngườicó nguy cơ cao hay không? Các hướng tác động nhằm ngăn ngừa sự phá hủy cáctế bào beta (là nơi sản xuất insulin) do nguyên nhân tự miễn dịch như các canthiệp bằng kháng nguyên, cytokine, các kháng thể đơn dòng... Tuy nhiên, hiệu quảcủa các biện pháp này đối với quần thể có nguy cơ cao (90% sẽ tiến triển thànhĐTĐ týp 1) là không chắc chắn và cần phải được tiến hành các thử nghiệm mớitrên các quần thể lớn hơn. Tác động lên môi trường: Có thể phòng ngừa được ĐTĐ týp 1 bằng cách phá bỏ hoặc ức chế các tácnhân từ môi trường có thể tương tác hoặc hoạt hóa các gen gây bệnh ĐTĐ týp 1.Tuy nhiên trong thực tế có một số tác nhân được quy kết là thủ phạm như nhiễmtrùng, nhiễm độc, chế độ ăn... nhưng chưa được xác định chắc chắn nên chưa thểtiến hành các nghiên cứu đặc hiệu theo tác nhân gây bệnh. ...