Thông tin tài liệu:
Kỳ II: Hướng điều trị mớiGhép tụy Các nghiên cứu cấy ghép tụy nhân tạo kết hợp với dùng thuốc ức chế miễn dịch cho BN ĐTĐ týp 1 đem lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên có nhiều thách thức khi áp dụng phương pháp này vào thực hành lâm sàng mà thách thức lớn nhất là thiếu nguồn cho tiểu đảo tụy. Để khắc phục thì có 2 hướng, thứ nhất là sử dụng tế bào nguồn đa dòng để cấy ghép mà không cần dùng các thuốc ức chế miễn dịchlâu dài để ngăn ngừa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hướng mới điều trị bệnh đái tháo đường týp 1 (Kỳ II) Hướng mới điều trị bệnh đái tháo đường týp 1 (Kỳ II) Sơ đồ ghép tế bào tiểu đảo của tụy điều trị ĐTĐ týp I. Kỳ II: Hướng điều trị mới Ghép tụy Các nghiên cứu cấy ghép tụy nhân tạo kết hợp với dùng thuốc ức chế miễndịch cho BN ĐTĐ týp 1 đem lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên có nhiều tháchthức khi áp dụng phương pháp này vào thực hành lâm sàng mà thách thức lớn nhấtlà thiếu nguồn cho tiểu đảo tụy. Để khắc phục thì có 2 hướng, thứ nhất là sử dụngtế bào nguồn đa dòng để cấy ghép mà không cần dùng các thuốc ức chế miễn dịchlâu dài để ngăn ngừa loại thải mảnh ghép; thứ 2 là cấy ghép dị loài từ insulin củalợn nhưng bị trở ngại bởi nguy cơ bị nhiễm khuẩn. Tụy nhân tạo: Về nguyên lý, tụy nhân tạo là một hệ thống được cấy vàotrong cơ thể có khả năng đo đường máu liên tục và trên cơ sở đó sẽ hoạt hóa mộtbơm cơ học để phân phối insulin trực tiếp cho gan. Đây thực sự là một phươngpháp cung cấp insulin rất sinh lý và có khả năng ứng dụng cao. Tuy nhiên trongthời gian tới vẫn cần có sự cải tiến nhiều nữa thì mới mong có được những thiết bịnày. Bơm insulin: Đây là một hệ thống có độ chính xác rất cao, có một đầu kimđược đặt ở dưới da và bơm insulin liên tục theo chế độ đặt sẵn. Hiện nay một sốbơm dạng này đã được sử dụng trong điều trị một số BN ĐTĐ ở Mỹ và châu Âu.Lưu ý là chỉ nên sử dụng thiết bị này cho những BN được huấn luyện kỹ và dướisự giám sát chặt của các nhân viên y tế. Dụng cụ đo đường máu không cần chích máu: Có tới hơn 90% các BNĐTĐ không muốn thử đường máu mao mạch hằng ngày do sợ đau. Vì thế đođường máu không cần chích máu là ước mơ của cả thầy thuốc và người bệnh. Đãcó một bước tiến dài trong việc phát minh một đầu dò (sensor) có độ chính xác vànhạy, cho phép đo đường máu liên tục mà không cần chích máu, có khả năng lưugiữ số liệu và khả năng cảnh báo hạ đường máu. Phát minh này hỗ trợ rất nhiềucho kiểm soát tốt đường máu và làm giảm nguy cơ bị hạ đường máu, nhất là hạđường máu không có triệu chứng. Kiểm soát đường máu quanh và sau bữa ăn: Muốn hạn chế biến chứngĐTĐ thì phải kiểm soát tốt không những đường máu lúc đói mà cả đường máuquanh và sau bữa ăn bằng cách sử dụng insulin nhanh trước bữa ăn (lispro, aspart,glulisine và có thể cả insulin hít nữa). Dạng đồng phân của amylin là pramlintide,dùng vào trước bữa ăn và kết hợp với insulin đã được chứng minh có tác dụng làmgiảm đường máu sau ăn, giảm HbA1C, giảm cân nặng và giảm liều insulin ở cảBN ĐTĐ týp 1 và ĐTĐ týp 2, có thể sắp được đưa ra thị trường. Tuy nhiên có mộthạn chế là thuốc chỉ có dạng tiêm và lại không thể trộn lẫn với insulin nên phảitiêm nhiều lần. Điều trị làm giảm sự phá hủy tế bào beta do nguyên nhân tự miễn: Một sốphương pháp điều trị bằng cách sử dụng kháng nguyên được cho là có vai tròtrong quá trình tự miễn phá hủy tế bào beta gây bệnh ĐTĐ týp 1 bao gồm cácmảnh của chuỗi insulin B, GAD64, và protein shock nhiệt (heat-shock protein)đang được thử nghiệm trên lâm sàng. Ngoài ra có nhiều nghiên cứu khác nhằm tìmra các đích miễn dịch khác ở người và động vật bị ĐTĐ týp 1. Ví dụ nghiên cứutrên chuột NOD bị ĐTĐ thấy những phương pháp này có thể ngăn ngừa tiến triểncủa viêm các tiểu đảo tiết insulin và phòng ngừa được ĐTĐ týp 1. Tuy nhiên hiệuquả ở trên người thì còn phải nghiên cứu thêm. Các phương pháp tái tạo và kích thích tế bào beta phát triển và ức chế tếbào beta chết theo chương trình. Dựa trên đặc tính sinh học của tế bào beta, ngườita đã thử nghiệm và phát hiện nhiều yếu tố có khả năng kích thích sự phát triểncủa các tiểu đảo tụy như GLP-1, exendin-4, IGF-1, nitric oxide, và các yếu tốchuyển dạng tế bào beta như yếu tố chuyển dạng tụy - tá tràng 1 (PDX-1)... ở độngvật trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, người ta chưa rõ tính đặc hiệu của các tácnhân này. Bắt buộc phải điều trị kèm bằng các thuốc ức chế miễn dịch để phòngngừa các tế bào beta mới được tái tạo bị phá hủy. Điều lý thú là hướng điều trị nàycó thể cóhiệu quả ởcả các BNĐTĐ týp 2. Cácthuốcinsulinkhông Insulin B làm giảm quá trình hủy tế bào beta gây bệnh ĐTĐdùng týp I.đườngtiêm: Insulin dạng hít: Insulin hít là 1 dạng thuốc thay thế insulin tiêm đang tiếngần đến hiện thực nhất. Gần đây, pha III của một thử nghiệm lâm sàng đã chứngminh rằng hít insulin trước các bữa ăn có thể đạt hiệu quả giống như tiêm insulinnhanh. Do thuốc insulin hít có thời gian tác dụng ngắn nên vẫn phải dùng phối hợpvới các dạng insulin tiêm tác dụng chậm hoặc bán chậm để bảo đảm được nồng độinsulin nền và khả năng kiểm soát tốt đường máu suốt 24 giờ. Tuy nhiên, một lợiđiểm không thể chối cãi của insulin hít là BN cảm thấy chất lượng cuộc sống tốthơn, và họ hài lòng hơn với điều trị. Mặc dù cả các nhà nghiên cứu và ...