Danh mục

HÚT THUỐC LÁ THỤ ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN NỮ

Số trang: 17      Loại file: pdf      Dung lượng: 688.74 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 16,000 VND Tải xuống file đầy đủ (17 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu: Đánh giá tình trạng hút thuốc lá thụ động ở bệnh nhân nữ Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang phân tích Kết quả: Từ 6/2006 đến 6/2008, có 138 bệnh nhân nữ hít khói thuốc lá thụ động. Tuổi trung bình là 48,3 (22 – 77 tuổi). Có 84,06% trường hợp từ 35 tuổi trở lên và 87,68% đã lập gia đình. Có 44,2% trường hợp hít phải khói thuốc lá thụ động tại nhà, 22,47% tại nơi làm việc và 33,33% tại cả hai nơi. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HÚT THUỐC LÁ THỤ ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN NỮ HÚT THUỐC LÁ THỤ ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN NỮ TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá tình trạng hút thuốc lá thụ động ở bệnh nhân nữ Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang phân tích Kết quả: Từ 6/2006 đến 6/2008, có 138 bệnh nhân nữ hít khói thuốc lá thụ động. Tuổi trung bình là 48,3 (22 – 77 tuổi). Có 84,06% trường hợp từ 35 tuổi trở lên và 87,68% đã lập gia đình. Có 44,2% trường hợp hít phải khói thuốc lá thụ động tại nhà, 22,47% tại nơi làm việc và 33,33% tại cả hai nơi. Hít phải khói thuốc lá thụ động cả ở nhà và nơi làm việc thì nguy cơ mắc bệnh lý phổi cao gấp 1,63 lần so với tại một nơi (p = 0,037). Bệnh nhân nữ có người thân sống cùng gia đình hút thuốc lá ≥ 10 gói/năm (74,64%) thì nguy cơ mắc bệnh lý phổi cao gấp 2,47 lần nhiều hơn so với nhóm khác (p = 0,014). Biểu hiện lâm sàng thường gặp là khó thở nhẹ (88,41%), ho khan (71,01%), khạc đàm (35,51%), đau ngực (34,06%), đau họng (31,88%), khó ngủ (59,42%) và lo âu, mệt mỏi, hay quên (65,94%). Trên X-quang phổi chủ yếu là hình ảnh mô kẽ phổi (68,12%), khí phế thũng (11,6%), hình khối u (2,17%). Đồng thời, 75,75% có chức năng hô hấp bình thường hoặc hội chứng hạn chế mức độ nhẹ. Mặt khác, 126 trường hợp (91,3%) hít khói thuốc lá thụ động có biểu hiện bệnh lý phổi, trong đó, thường gặp nhất là viêm phế quản (58,7%), viêm họng (21,01%); kế đến là 11 trường hợp hen phế quản, 5 xơ phổi và 3 ung thư phổi. Ngoài ra, 65,94% trường hợp có biểu hiện rối loạn trạng thái tâm thần. Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân nữ hít phải khói thuốc lá thụ động dễ mắc nhiều bệnh lý, thường gặp là bệnh lý hô hấp và biểu hiện rối loạn trạng thái tâm thần. ABSTRACT EVALUATION OF SECOND-HAND SMOKE ON WOMEN PATIENTS Ngo Thanh Binh, Quang Van Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 140 - 145 Objective: to evaluate passive smoking on women patients Method: analytical cross-sectional study Result: From 6/2006 to 6/2008, there were 138 cases of second-hand smoke on women patients. The average age was 48.3 (range, 22 – 77). 84.06% among them were over 35 years old and 87.68% were got married. There were 44.2% cases of involuntary smoking at home, 22.47% at workplaces and 33.33% at both. Passive smoking at home and at workplaces was 1.63 times higher than at one (p = 0.037). Group of women patients whose relatives have smoked ≥ 10 pack/year (74.64%) was easy to suffer from lung diseases 2.47 times higher than another (p = 0.014). Clinical symptoms were often mild breathless (88.41%), cough (71.01%), sputum productive (35.51%), chest tight (34.06%), sore throat (31.88%), trouble in sleep (59.42%) and anxious, exhausted, forgetful (65.94%). On the chest X-rays, there were mainly interstial lession (68.12%), emphysema (11.6%), tumor (2.17%). Simultaneously, 75.75% cases had normal lung function or mild limitation syndrome. Besides, 126 cases (91.3%) of passive smoking were respiratory diseases, including bronchitis (58.7%), pharyngitis (21.01%), next to 11 cases of asthma, 5 lung fibrosis and 3 lung cancer. On the other hand, there was 65.94% cases of mental disorders. Conclusion: in our study, passive smoking women patients were easy to get many diseases but the most common was respiratory diseases and mental disorders. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hàng ngày trên thế giới có khoảng 250 triệu phụ nữ và gần 1 tỷ nam giới hút thuốc lá, tức là tỉ lệ hút thuốc lá ở nam giới nhiều gấp hơn 4 lần so với nữ giới (48% so với 12%), và đặc biệt, tỉ lệ hút thuốc lá ở nữ giới ngày càng gia tăng, dự báo có thể tăng lên đến 20% vào năm 2025(1,5,8,9,11,13,15,19). Ở Việt nam, theo điều tra năm 1997, tỉ lệ hút thuốc lá ở nam giới là 50% và nữ giới là 3,4%(4). Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc hại (khoảng 4.000 chất) và là yếu tố thuận lợi gây nên nhiều bệnh lý nguy hiểm cho bản thân người phụ nữ như ung thư (thường gặp nhất là ung thư phổi), bệnh lý hô hấp (viêm phế quản mãn tính, hen phế quản,…), bệnh lý tim mạch, bất thường về sức khỏe sinh sản và tình trạng rối loạn tâm thần…(2,4-7,10,12,14,18,19). Số tỉ lệ tử vong ở phụ nữ hít phải khói thuốc lá ngày càng gia tăng; chẳng hạn, ở Châu Âu, con số tử vong này là 10.000 vào năm 1955 tăng lên 113.000 vào năm 1995(9); và ở trên toàn thế giới vào năm 2000, khoảng 990.000 phụ nữ tử vong do các bệnh lý liên quan đến hút thuốc lá(11,13,21). Hút thuốc lá thụ động ở phụ nữ và những tác hại của nó đã được nghiên cứu và ghi nhận ở một số nước trên thế giới bởi các tổ chức y tế, chính phủ và các nhà khoa học(28,10,12,14-22). Hút thuốc lá thụ động có thể xảy ra tại nơi sinh sống, nơi làm việc, và nơi công cộng. Theo Tổ chức Lao động quốc tế, ước đoán ít nhất 200.000 người tử vong mỗi năm do tiếp xúc với khói thuốc lá tại nơi làm việc(13,19). Theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ, cho rằng hút thuốc lá thụ động chịu trách nhiệm về 3.000 trường hợp tử vong do ung thư ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: