Danh mục

Huyết thanh trong nuôi cấy ký sinh trùng sốt rốt

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 99.42 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nuôi cấy chu trình sống của Plasmodium ở giai đoạn hồng cầu làmột lĩnh vực đang được đầu tư một khối lượng lớn về thời gian và công sức. Quá trình phát triển của giai đoạn này thường đi chung với quá trình phát sinh bệnh sốt rét và là mục tiêu chính để phát triển vaccin. Thành tựu quan trọng trong lĩnh vực này là đã xác định được điều kiện nuôi cấy liên tục P.falciparum ở invitro, một loài ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) ác tính gây tử vong ở người. Thành tựu này được hoàn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Huyết thanh trong nuôi cấy ký sinh trùng sốt rốt Huyết thanh trong nuôi cấy ký sinh trùng sốt rốtNuôi cấy chu trình sống của Plasmodium ở giai đoạn hồng cầu làmột lĩnh vựcđang được đầu tư một khối lượng lớn về thời gian và công sức. Quá trình pháttriển của giai đoạn này thường đi chung với quá trình phát sinh bệnh sốt rét và làmục tiêu chính để phát triển vaccin. Thành tựu quan trọng trong lĩnh vực n ày là đãxác định được điều kiện nuôi cấy liên tục P.falciparum ở invitro, một loài ký sinhtrùng sốt rét (KSTSR) ác tính gây tử vong ở người. Thành tựu này được hoànthành bởi Trager và Jensen, đã sử dụng môi trường nuôi cấy mô RPMI 1640, đệmHEPES, bổ sung huyết thanh người, hồng cầu và Na2CO3. KST được nuôi cấytrong đĩa petri và đặt trong bình nến có khí quyển 3%CO2 - 17% O2 hoặc trongbình nuôi có thể thay liên tục môi trường nuôi cấy với khí quyển chứa 7% CO2 -1% O2 – 92% N2.Chức năng của hệ thống này phát triển tốt nhất khi bổ sung 10% đến 15% huyếtthanh người. Nhưng vì những lý do như sự mất đi, sự sinh ra, và có thể cả sự hiệndiện tính ức chế của yếu tố miễn dịch và thuốc chống sốt rét, nên người ta đã quantâm đến việc thay thế các loại huyết thanh của các loại động vật có vú ( b ò, khỉ,ngựa, dê, cừu, thỏ hoặc heo) thay cho huyết thanh người hay thậm chí phát triểnmột môi trường huyết thanh tự do trong nuôi cấy KST. Khi so sánh các huyếtthanh của ngựa, heo, và cừu non, thì huyết thanh ngựa tốt hơn các loài khác nhưngkhông tốt như huyết thanh người. Huyết thanh bào thai bò, nhìn chung cho hiệuquả phát triển kém hơn huyết thanh người, khi mới thu được từ bào thai của cáccon bò khác nhau, ban đầu KST phát triển tốt nhưng trên 30 ngày sẽ dẫn đến sựgiảm số lượng KST. Huyết thanh thỏ (5 đến 10%) được dùng thay thế cho huyếtthanh người nhưng đòi hòi khoảng thời gian từ 2 đến 3 tuần cho sự thích nghitrong nuôi cấy. Jensen đã so sánh tỷ lệ của sự phát triển của P.falciparum tronghuyết thanh của các loại động vật khác nhau. Với huyết thanh sạch của ng ười làtiêu chuẩn 100%, các huyết thanh tiếp theo có tỷ lệ như sau: bào thai bò tinh sạch35%, bò trưởng thành 7%, bò mới sinh 1%, ngựa 19%, heo 14%, và cừu 2%.Ifediba và Vanderberg đã báo cáo việc thay thế huyết thanh người bằng neopeptonvà Proteose Pepton no.3, Ofullavà cộng sự báo cáo thay thế huyết thanh ngườibằng albumine trong huyết thanh bò(5g/l). Việc thẩm tách huyết thanh người làmgiảm mất khả năng hỗ trợ sự phát triển của KST, và những loại huyết thanhthương mại hỗ trợ sự phát triển chỉ bằng khoảng ¼ trong cùng một lượng nuôi cấy.Với huyết thanh thay thế, gần đây người ta đã điều chế các thành phần lipoproteinvới mật độ cao ( tập trung trong khoảng 0.25 đến 0.5 mg/ml) được dùng để nuôidưỡng sự phát triển P.falciparum, với kết quả này có thể sẽ được dùng để thay thếcho huyết thanh người. Với các thành phần lipoprotein khác, mật độ lipoproteinthấp hoặc rất thấp sẽ tạo ra sự phát triển ít hoặc không phát triển.Yếu tố xúc tác sựphát triển GF 21 (bao gồm thành phần Ammonium sulfate của huyết thanh bòtrưởng thành cộng với insulin, transferrin, và sodium selenite) được sử dụng vớimôi trường mẹ Daigo’s T cho huyết thanh tự do trong sự phát triển củaP.falciparum. RPMI 1640 được bổ sung với adenosine, acid béo C18 ch ưa bãohoà, và acid béo tự do albumin huyết thanh bò tạo ra huyết thanh tự do, nhưng tỷlệ phát triển của KST thấp h ơn trong môi trường có chứa huyết tương. Huyếtthanh hỗn hợp làm giảm tối thiểu sự không ổn định tính kích thích phát triển củanhững mẫu huyết thanh từ những người và thỏ khác nhau.Đối với việc thay thế các loại huyết thanh thương mại, Lingnau và cộng sự đãdùng một loại huyết thanh phù hợp như một chất thay thế, Nutridoma - SR (4%),để nuôi một vài dòng P.fal từ những vị trí khác nhau trên thế giới, với kết quả tạora 10% KST trong vòng 3 đến 4 ngày. Flores và cộng sự đã có kết quả tốt hơn khitập trung một lượng thấp Nutridoma - SR (1%) kết hợp với Albumax (0.5%), điềuchế một loại huyết thanh albumin tinh sạch. Việc nuôi cấy n ày được duy trì trong30 đến 50 ngày, với 10% KST, so sánh với 15% KST được duy trì trong huyếtthanh người. Người ta thấy rằng khi gia tăng sự tập trung nồng độ Nutridoma -SRcao hơn (2 hoặc 4%) thì KST không sống được hoặc mức độ KST thấp hơn (mứcđộ mà KST sống khi xâm nhập vào tế bào máu). Binh và cộng sự cũng dùngAlbumax trong nuôi cấy P.falciparum, KST đạt tới 85% sau 7 ngày với sự cấychuyển liên tục plasmodia. Cranmer và cộng sự dùng Albumax II (0.5%) cho sựphát triển của P.falciparum, đạt khoảng 6% và 12% cho 2 dòng gây b ệnh sốt rétkhác nhau. Người ta thấy có sự cần thiết trong việc thêm vào hypoxanthine vàomôi trường phát triển để duy trì mức độ của KST. Huyết tương không qua quátrình xử lý nhiệt được dùng để nuơi cấy quy mô lớn P.falciparum, cục nghẽn đượctránh bằng cách sử dụng lọ nuôi plastic hoặc bằng lọ thuỷ tinh silico ...

Tài liệu được xem nhiều: