Tham khảo tài liệu ðiều trị cường giáp trạng ở phụ nữ mang thai: thuốc nào an toàn?, y tế - sức khoẻ, y học thường thức phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ðiều trị cường giáp trạng ở phụ nữ mang thai: Thuốc nào an toàn? Ðiều trị cường giáp trạng ở phụ nữ mang thai: Thuốc nào an toàn?Cường giáp trạng gặp ở khoảng 0,1- 0,2% số phụ nữ mangthai, trong đó bệnh Basedow là nguyên nhân thường gặpnhất, các nguyên nhân khác ít gặp hơn như nhân độc tuyếngiáp hoặc bướu giáp đa nhân. Cường giáp nếu không đượckiểm soát tốt có thể gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho cảmẹ và thai nhi.Với người mẹ mang thai, suy tim có thể xuất hiện, tiểu đườngcũng khó kiểm soát hơn nếu xảy ra đồng thời với cường giáp.Đối với thai nghén, các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy, tìnhtrạng cường giáp dai dẳng có thể gây ra nhiều biến chứng chothai như chết lưu, đẻ non, chậm phát triển thai hoặc các bệnh lýcủa thai. Ngoài ra, khoảng 1 - 10% số trẻ đẻ ra có thể bị cườnggiáp sơ sinh, tuy nhiên, tình trạng này thường thoáng qua.Do iốt phóng xạ bị chống chỉ định tuyệt đối ở phụ nữ mang thainên điều trị bằng thuốc kháng giáp trạng vẫn là sự lựa chọn hàngđầu hiện nay với nhiều thầy thuốc trong xử trí cường giáp ở phụnữ mang thai. Phẫu thuật cắt tuyến giáp bán phần chỉ được chỉđịnh khi việc điều trị bằng thuốc thất bại hoặc sản phụ khôngdung nạp được thuốc do tác dụng phụ hoặc sản phụ quá lo lắngvề tác dụng phụ của thuốc đối với thai, phẫu thuật thường đượctiến hành vào 3 tháng giữa của thai kỳ. Hình ảnh tuyến giáp.Các thuốc kháng giáp trạngKể từ khi những thuốc kháng giáp trạng đầu tiên là thiourea vàthiouracil được đưa vào sử dụng năm 1943, nhiều loại thuốckháng giáp khác an toàn hơn đã ra đời sau đó, nhưmethylthiouracil, propylthiouracil, thiamazole và các dẫn xuấtcủa nó (như methimazole, carbimazole).Về tác dụng phụ đối với mẹ: carbimazole, thiamazole vàpropylthiouracil có nguy cơ gây tác dụng phụ tương tự nhau đốivới mẹ, thường gặp nhất là gây giảm nhẹ số lượng bạch cầu, xảyra ở khoảng 12% số người dùng thuốc và thường thoáng qua.Mất bạch cầu hạt là biến chứng nguy hiểm nhất nhưng hiếm gặp,chỉ xảy ra ở khoảng 0,2% số bệnh nhân và thường ở nhữngngười trên 40 tuổi, dùng liều cao của carbimazole hoặcthiamazole. Các tác dụng phụ khác ít gặp hơn (< 5% số ngườidùng) là nổi ban đỏ, sẩn ngứa, buồn nôn và nôn, sốt, đau đầu,đau khớp, rụng tóc và rối loạn vị giác. Các tác dụng phụ khác rấthiếm gặp là vàng da ứ mật, viêm mạch và tổn thương tế bàogan…Về nguy cơ gây dị tật bẩm sinh thai nhi: cho đến nay có rất ítbằng chứng cho thấy các thuốc kháng giáp có liên quan với cácdị tật bẩm sinh. Theo một nghiên cứu của các tác giả nướcngoài, tỷ lệ dị tật bẩm sinh ở những đứa con của các bà mẹcường giáp không được điều trị là 6% so với chỉ 1% ở những bàmẹ được điều trị bằng thiamazole trong 3 tháng đầu thai kỳ.Trong một nghiên cứu khác, tỷ lệ dị tật bẩm sinh là 3% ở nhữngđứa trẻ mà mẹ được điều trị với propylthiouracil và 2,7% vớinhững bà mẹ dùng thiamazole, những tỷ lệ này tương đương vớitỷ lệ dị tật bẩm sinh ngẫu nhiên trong cộng đồng chung (2-5%).Trước đây có một số báo cáo về nguy cơ gây bất sản da của thainhi với thiamazole nhưng những nghiên cứu sau đó đã khôngchứng minh được điều này.Đối với sự phát triển và hoạt động chức năng của thai nhi và trẻsơ sinh: suy giáp và bướu giáp là những nguy cơ rõ rệt nhất cóthể xảy ra liên quan đến việc bà mẹ điều trị bằng thuốc khánggiáp trạng. Propylthiouracil ngay ở liều thấp 100 - 200mg ở mẹcũng có thể gây tình trạng suy giáp ở thai nhi. Khoảng 1% số trẻsơ sinh của những bà mẹ có dùng thuốc kháng giáp trong thời kỳmang thai có biểu hiện suy giáp và bướu giáp nhỏ. Tuy nhiên,các tai biến này thường chỉ thoáng qua, các nghiên cứu dịch tễhọc đã cho thấy, việc điều trị thuốc kháng giáp trong thời kỳmang thai không gây ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất vàtinh thần lâu dài của trẻ.Về việc lựa chọn thuốc kháng giáp trong thời kỳ mang thai: mặcdù carbimazole và thiamazole có ít tác dụng phụ cho mẹ hơn sovới propylthiouracil và cả 3 thuốc đều có thể qua hàng rào rauthai và gây ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp của thai nhi,nhưng propylthiouracil là thuốc được ưu tiên lựa chọn ở phụ nữcó thai và cho con bú do thuốc này có khả năng gắn mạnh hơnvới protein huyết tương, ít tan trong nước và ion hóa ở pH 7,4,điều này giúp cho thuốc ít ngấm vào tuyến giáp của thai nhi vàsữa mẹ. Tỷ lệ ngấm qua rau thai của propylthiouracil được ghinhận bằng khoảng 1/4 tỷ lệ ngấm của thiamazole. Liều dùngthuốc nên giảm ngay khi kiểm soát được các triệu chứng cườnggiáp trên lâm sàng và nồng độ hóc môn tuyến giáp T4 trở vềgiới hạn bình thường. Với người mẹ mang thai, suy tim có thể xuất hiện, tiểu đường cũng khó kiểm soát hơn nếu xảy ra đồng thời với cường giáp.Thuốc chẹn bêta giao cảm (propranolol)Mặc dù trong thực hành lâm sàng, nhiều thầy thuốc đã sử dụngan toàn propranolol liều thấp ở phụ nữ có thai để điều trị tănghuyết áp và cường giáp, nhưng cũng đã có những báo cáo ghinhận các tai biến của propranolol đối vớ ...