Danh mục

ÐIỀU TRỊ GÃY ÐẦU DƯỚI XƯƠNG QUAY THEO PHƯƠNG PHÁP KAPANDJI

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 144.72 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ðiều trị gãy đầu dưới xuơng quay bằng nắn và bó bột có nhược điểm là dễ di lệch thứ phát và hạn chế phục hồi cơ năng do bất động lâu. Từ tháng 4 năm 1991 đến tháng 12 năm 1992 có 36 trường hợp gãy đầu dưới xương quay được điều trị theo phương pháp Kapandji. Thời gian theo dõi trung bình là 20 tuần. Phục hồi cơ năng loại tốt là 33 trường hợp (91,6%). Di lệch thứ phát 2 trường hợp (5,6%). Biến chứng chạm nhánh cảm giác thần kinh quay 1 trường hợp (2,8%). Không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ÐIỀU TRỊ GÃY ÐẦU DƯỚI XƯƠNG QUAY THEO PHƯƠNG PHÁP KAPANDJI ÐIỀU TRỊ GÃY ÐẦU DƯỚI XƯƠNG QUAY THEO PHƯƠNG PHÁP KAPANDJITÓM TẮTÐiều trị gãy đầu dưới xuơng quay bằng nắn và bó bột có nhược điểm là dễ dilệch thứ phát và hạn chế phục hồi cơ năng do bất động lâu. Từ tháng 4 năm1991 đến tháng 12 năm 1992 có 36 trường hợp gãy đầu dưới xương quayđược điều trị theo phương pháp Kapandji. Thời gian theo dõi trung bình là20 tuần. Phục hồi cơ năng loại tốt là 33 trường hợp (91,6%). Di lệch thứphát 2 trường hợp (5,6%). Biến chứng chạm nhánh cảm giác thần kinh quay1 trường hợp (2,8%). Không có các biến chứng như nhiễm trùng. tổn thươnggân... Nhận thấy đây là phương pháp đơn giản có hiệu quả trong điều trị gãyđầu dưới xương quay di lệch ra sau.SUMMARYTREATMENT OF DISTAL RADIAL FRACTURES WITHKAPANDJI S METHOD.Nguyen Trong Tin * Y hoc TP. Ho Chi Minh * 1999. vol. 3. N0 3: 159-161The disadvantages of conservative treatment of distal radial fractures are thesecondary displacement and the limitation of functional recovery because ofprolonged immobilization. From April 1991 to December 1992. 36 cases ofdistal radial fractures were treated with Kapandji s method. The averagetime of follow-up is 20 weeks. There were 33 cases with good outcome(91.6%) and 2 cases with secondary displacement (5.8%). There were onecase of radial nerve lesion and one with algodystrophy. There was no case ofinfection, nor tendon lesion.. This is a simple and effective method that canbe applied in treatment of distal radial fractures.MỞ ÐẦUGãy đầu dưới xương quay là một trong những gãy xương khá phổ biến.Theo tài liệu chấn thương chỉnh hình của bệnh viện Bình Dân thì loại gãynày chiếm 8% tổng số gãy xương và 26% ở gãy xương chi trên(13).Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị đã được áp dụng trên thế giới nhưnắn bó bột, xuyên kim qua da, mổ kết hợp xương, bất động ngoài... Ở nướcta, điều trị chủ yếu là nắn bó bột. Phương pháp này có nhược điểm là dễ bị dilệch thứ phát dưới bột và cứng khớp, rối loạn dinh dưỡng do bất động lâu.Tác giả Kapandji đề xuất và thực hiện phương pháp xuyên kim qua khe gãyđể cố định và tập vận động sớm, hạn chế các biến chứng do phương phápnắn bó bột gây ra.Mục tiêu của đề tài này là áp dụng phương pháp trên và đánh giá hiệu quảcủa nó trong điều trị gãy đầu dưới xương quay ở nước ta.PHƯƠNG PHÁPChỉ định- Chỉ định lý tưởng là gãy kiểu Pouteau-Colles.- Tuy nhiên phương pháp này có thể mở rộng cho nhiều loại gãy đầu dướixương quay di lệch ra sau và không phải là gãy nát(6).Chuẩn bị dụng cụÐể áp dụng phương pháp này cần có một số dụng cụ như khoan tay và cácđoạn kim Kirscliner dài 5-8cm có đường kính 1,21,5mm. Nếu có khoanmáy và máy X-quang có màng tăng sáng càng tốt.Chuẩn bị bệnh nhânTùy theo điều kiện cụ thể, có thể thực hiện ở phòng tiểu phẫu hoặc phòngmổ. Vô cảm có thể là tê tại chỗ, tê tùng hoặc mê tĩnh mạch.phương pháp xuyên kim* Có 3 kim được xuyên ở 3 vị trí sau:+ Ngoài+ Sau - ngoài+ Sau - trong: do có mảnh thứ 3.* Có 2 thì xuyên kim(4)Sau khi vô cảm. da được rạch dọc 1 cm ở mỗi vị trí xuyên. Dùng Kelly táchmô mềm qua 2 bên. Kim Kirschner đã gắn vào khoan sẵn sàng để xuyên.- Thì 1: Kim được đưa vào giữa 2 càng của kelly vào tận xương và dùngđầu kim dò tìm khe gãy. Khi đầu kim nằm đúng khe gãy, kim được xuyênthẳng góc với trục xương, qua vỏ xương.- Thì 2: Ðầu kim hướng lên trên hợp với trục xương quay góc 45 và tiếptục xuyên cho vừa qua vỏ bên đối diện.Sau khi kim đã xuyên vào đúng vị trí, kim được cắt sau cho đầu kim nằmngay dưới da. Da được may lại.Săn sóc, theo dõi- Sau xuyên kim, có thể đặt một nẹp cẳng bàn tay cho giảm sưng. Nẹp bộtđược bỏ sau 1 đến 3 tuần tùy theo sự đau tại chỗ và mức độ vững của xươnggãy.- Chụp phim kiểm tra ngay sau xuyên kim nếu lúc thực hiện không có màngtăng sáng.- Tái khám và chụp kiểm tra vào tuần thứ 1, 3, 6, 8 và 12...- Rút bỏ kim sau 6 tuần.Cách đánh giá kết quảÐánh giá kết quả dựa trên:- Tỉ lệ di lệch thứ phát.- Tỉ lệ phục hồi cơ năng- Các biến chứng như: nhiễm trùng, tổn thương gân, thần kinh, khớp giả,tuột kim...KẾT QUẢ- Từ tháng 4 năm 1991 đến tháng 12 năm 1992, có 40 ca được thực hiện tạikhoa Chấn thương Chỉnh Hình, bệnh viện Chợ Rẫy, trong đó có 36 ca đ ượctheo dõi.- Có 28 nam, 8 nữ, nhỏ nhất 10 tuổi và lớn nhất là 65 tuổi, tuổi trung bình là26. Gãy ngoài khớp là 30 trường hợp và 6 trường hợp trong khớp. Thời gianxử trí sau tai nạn trung bình là 43 giờ, có trường hợp muộn đến 6 ngày.- Di lệch thứ phát là 2 trường hợp chiếm tỷ lệ 5,6%.- Phục hồi vận động loại tốt là 33 trường hợp (91,6%), loại khá là 2 trườnghợp (5,6%) và loại trung bình là 1 trường hợp (2,8%), không có trường hợpnào đạt cơ năng loại xấu, kể cả 2 trường hợp có di lệch thứ phát.-Về biến chứng: có 1 trường hợp tổn thương tạ ...

Tài liệu được xem nhiều: