Không có mặt trời thì hoa không nở, không có phụ nữ không có thế giới. 4000 năm giữ nước và dựng nước, không kém cạnh các đấng mày râu, ở bất kỳ đời nào thời nào, ở bất cứ công việc nào từ làm khoa học, sáng tác văn thơ, giết giặc, trị nước, cũng có những người phụ nữ xuất chúng với phẩm hạnh cao quý mà nam giới khó bì kịp. Mời các bạn cùng đón đọc phần 2 của ebook sau đây để biết thêm chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kể chuyện danh nhân Việt Nam (Tập 8): Phần 2 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM BÀ CẢ MỌC Thương người như thể thương thân Trong những năm đầu của thế kỷ XX tại Hà Nội, bên cạnh đềnTrung Liệt thờ những bậc trung liệt bỏ mình vì Nước thì còn có mộtngôi đền nguy nga đặt tên là Tống quận công Sinh Từ - nhằm thờsống Nguyễn Hữu Độ. Do có ngôi đền này nên con đường đi vào phíaCửa Nam của thành Thăng Long, ở đoạn đình Văn Tân mới có tênlà phố Sinh Từ, dù trước đó nhân dân quen gọi là phố Cây Bàng vìphố này có trồng nhiều cây bàng che bóng mát. Nhưng đấng mày râunày là ai mà dám dựng đền thờ lúc còn sống? Y là tay sai đắc lực củaToàn quyền De Courcy, do có công đàn áp phong trào kháng chiếnnên được phong Kinh lược sứ quyền lực bao trùm cả đất Bắc. Trongnhững ngày tết nhất hoặc sinh nhật của y, bọn quan lại xu nịnh cácnơi võng lọng ngựa nghẽo ùn ùn đến chúc mừng đông vui như trẩyhội. Bọn trí thức nửa mùa thường đem văn hay chữ tốt đến ca ngợi“công đức” của y! Còn các bậc túc nho có tinh thần yêu nước thươngdân thì không bao giờ táng tận lương tâm làm trò quái gở như thế,trong số này có cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Biết cụ làbậc đại khoa nên y đến xin ba chữ để ghi trên bức hoành phi lộng lẫytreo trong đền. Cực chẳng đã, cụ nhăn mặt, phóng tay viết tháo ba chữ“Sinh sự chi”- rút từ trong sách Luận ngữ “Sinh sự chi dĩ lễ”, nghĩalà lẽ thờ sống phải như vậy. Y mừng rơn đem về treo. Nhưng nhữngngười thâm nho khi nhìn thấy bức hoành phi này đều che miệng tủmtỉm cười, vì cụ Tam Nguyên lỡm thói huênh hoang, kệch cỡm “muốn 143 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAMlưu danh muôn thuở” ấy là một tiếng quát thẳng vào mặt y. Thật vậy,khi đọc theo âm tiếng Việt thì ta sẽ cảm nhận khác hẳn. Ai cũng hiểucụ mắng “sinh sự chi” vậy? Oái oăm cho cái trò đời, sau khi y chết, chốn này vắng tanh nhưchùa Bà Đanh, không ai buồn lui tới nữa. Cái đền đài nguy nga tránglệ ấy đã không cưỡng lại sự tàn phá của thời gian và của lòng người,nó trở nên hoang vắng tiêu điều. Trong bài thơ Vịnh Sinh Từ, cụ TamNguyên Yên Đổ mỉa mai: Ông mất, mũ áo không họp nữa, Lửa hương lạnh ngắt, lúa mọc đầy. Ngày nay, phố Sinh Từ đã đổi tên là phố Nguyễn Khuyến và khi điđến đó không còn ai nhớ đến đến cái tên Nguyễn Hữu Độ nữa. Vậyđó, khi sống có biết bao quyền lực trong tay, xây đền thờ sống mìnhrồi khi chết thì trở thành kẻ vô danh chìm mất trong cát bụi. Nhưngcũng trên phố này, có một người đàn bà bình thường khi sống khôngdựng đền cho mình, nhưng sau khi mất đi đã trở thành người hữudanh muôn thuở. Bà là người văn hay chữ tốt để lại nhiều áng vănbất hủ trong văn học sử hay là người cầm quân thao lược xông phatrận mạc đánh giặc Pháp? Không! Bà chỉ là một người phụ nữ bìnhdị để lại cho đời sau một tấm lòng nhân ái: làm việc thiện. Người đànbà đó, có cái tên nôm na mà trong dân gian thường gọi thân mật vàkính trọng là bà Cả Mọc. Bà Cả Mọc tên thật là Hoàng Thị Uyển, người làng Mọc, nằm bêncạnh sông Tô Lịch (tên Nôm của làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì -Hà Nội). Bà sinh khoảng năm 1870, là con gái của cụ cử Hoàng ĐạoThành. Chắc chắn truyền thống của gia đình đã ảnh hưởng đến việclàm của bà sau này. Cụ Hoàng Đạo Thành, hiệu Cúc Lữ nguyên họCung, khi đi thi Hương đổi sang họ Hoàng. Cụ đậu cử nhân năm 1884được bổ làm quan Tri phủ, nhưng sau đó từ quan về quê, cùng vớicác chí sĩ yêu nước hoạt động cho phong trào Duy Tân. Để đánh thứclòng yêu nước trong nhân dân, cụ viết những tác phẩm như Đại Namhành nghĩa liệt nữ truyện, Việt sử tân ước toàn biên, Việt sử tứ sự. Còn ông 144 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAMHoàng Đạo Thúy - em ruột củabà - là nhà giáo yêu nước và cũnglà một trong những người tiênphong tổ chức phong trào Hướngđạo ở Việt Nam. Cháu ruột củabà là cô Hoàng Kim Oanh - congái của ông Thúy - về sau là vợcủa nhà bác học Tạ Quang Bửu.Thời trước, ở làng Mọc các bà condâu cả đều gọi là bà Cả Mọc. Đểphân biệt bà với những bà khác,người ta còn gọi bà là bà Cả Vị - vìbà là vợ của ông Nguyễn Huy Vị,hiệu Hoành Tô, con trai một củacụ tú Nguyễn Đôn, người làng Bà Cả Mọc (1870-1947)Mọc Hạ Đình. Chung sống với ông Vị được vài năm thì chồng mất, lúc hai ngườichưa có con. Không bao lâu, bố chồng cũng qua đời. Mọi việc tronggia đình chồng đặt trên hai vai của con dâu. Bà cụ Tú thương chồngtiếc con nên đâm ra quẫn trí, thường hành hạ làm khổ con dâu đủđiều. Chứng kiến cảnh này, sư cụ chùa Quan Nhân thương tình nênmới đem bà Cả Mọc về giấu nuôi trong chùa. Bấy giờ, bà mới xấp xỉhai mươi xuân, nhiều người đến dặm hỏi, nhưng bà đều lắc đầu từchối. Thế nhưng, khi vắng con dâu cả thì cụ bà lại thương nhớ đếnphát cuồng, phát điên nên sư cụ lại đưa bà về nhà. Từ đó, bà Cả Mọcmới được mẹ chồng yêu thương như con đẻ. Hằng ngày, từ sáng tinhmơ, lúc gà chưa gáy sáng thì bà Cả Mọc đã thức dậy thổi cơm cho mẹchồng, rồi quẩy gánh vội vã chạy theo người trong làng ra thành thịkiếm sống. Tại phố Hàng Đào, bà làm tất tần tật mọi việc cho các giađình buôn bán giàu có để kiếm đồng tiền đem về nuôi mẹ chồng. Bàsiêng năng, cần mẫn, chịu thương chịu khó nên ai cũng thương. Đếnkhi bà cụ Tú vào ở hẳn trong chùa thì bà Cả Mọc mới dọn nhà lênthuê ở ngõ Miếu (Hàng Bạc). Có lần, một nhà thuốc lào ở chợ Đồng 145 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Phố Hàng Đào - nơi bà Cả Mọc mở hiệu Nghĩa LợiXuân phát tài lớn, nhiều người đến xin tiền thì chủ nhà rộng lượnggiúp đỡ. Bà cũng đến xin, nhưng chủ nhà chỉ cho đúng hai hào. Bàchê họ keo kiết nên giận bỏ về. Đến tối, nằm nghĩ lại bà thấy mìnhcó lỗi, người ta cho ít nhưng đó là cái “tâm”- lấy gì đo được cái tâm?Sáng hôm sau, bà trở lại hiệu thuốc xin lỗi người ta rồi xin nhận lạihai hào. Bà nghĩ, ...