Phan Chu Trinh
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 108.48 KB
Lượt xem: 23
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tiểu dẫn: Cụ Phan Chu Trinh không chỉ là một nhà chính trị, nhà báo, nhà thơ mà còn là một người viết tiểu thuyết. Xin dịch "Chuyện người lương dân" dưới đây. Bài này cụ viết năm 1904, lúc còn ở Huế, phần đông sĩ phu lúc ấy truyền tụng: "Người ta đồn nhau rằng ở tỉnh X, phủ X, làng X có một người tên là Điền Xá Ông. Trước ngõ vào nhà có treo một tấm bảng sơn son đỏ chót trên có bốn chữ thếp vàng to tướng và bóng nhoáng là "Sắc tứ lương...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Chu Trinh Phan Chu Trinh (Huỳnh Thúc Kháng dịch từ Hán Văn) Tiểu dẫn: Cụ Phan Chu Trinh không chỉ là một nhà chính trị, nhà báo,nhà thơ mà còn là một người viết tiểu thuyết. Xin dịch Chuyện người lươngdân dưới đây. Bài này cụ viết năm 1904, lúc còn ở Huế, phần đông sĩ phulúc ấy truyền tụng: Người ta đồn nhau rằng ở tỉnh X, phủ X, làng X có một người tên làĐiền Xá Ông. Trước ngõ vào nhà có treo một tấm bảng sơn son đỏ chót trêncó bốn chữ thếp vàng to tướng và bóng nhoáng là Sắc tứ lương dân. Kẻqua người lại, ai cũng trầm trồ khen ngợi. Có một người khách nghe tiếngđồn tới xin ra mắt. Đến thấy một ông già ra đón. Vào thấy trong nhà bàn ghếkhay hộp đều là đồ xưa, trên tường treo mấy tấm tranh đã cũ rích. Hỏi ôngchủ đâu, thì té ra ông già ra đón mình chính là người chủ đó. Ngồi yên saumấy câu thù ứng rồi cùng nói chuyện, xem ra người chủ ăn nói lù khù, nhưlà nói không ra câu. Khách hỏi: - Ông thuở này làm nghề gì? - Tôi thuở nhỏ học chữ nho, nhưng học có 10 năm mà không hiểunghĩa được một chữ gì (biết chữ mà không hiểu nghĩa như lão này thiếu gì!).Cha mẹ giận bắt về đi cày. Tánh lại ưa phong lưu, không muốn đi chơi vớibọn chân lấm tay bùn kia, nên bỏ nghề nông sang làm nghề thương... có baonhiêu vốn làm gì lỗ nấy. Sau cũng tưởng nghề thợ dễ an, tôi học nghề thợmộc. Nhưng nó cũng rủi làm sao! Hễ đẽo cây gỗ nào thì hư cây gỗ ấy cứ bịbác thợ cả mắng chửi mãi. Vì thế nên nay vẫn không có nghề gì. - Cha mẹ ông thế nào? - Trước ở đây. Nhưng bị nhà quyền hào giàu kia bức hiếp nên dời đinơi khác. - Còn anh em? - Anh em vẫn đông, song vì đói, người đi một nơi, kẻ đi một ngả. - Vậy thì tấm bảng thếp vàng treo trước ngõ đó, vì sao mà có? - Năm trên xứ này có cái nạn mất mùa, đói, giặc cướp lung tung. Dânđói, làng xóm đây đua nhau theo bọn đó đi dựt cướp của người. Tôi vẫnkhông bằng lòng đi theo, nhưng bị chúng hiếp bắt đi, bất đắc dĩ cũng đichung trong bọn ấy, nhưng không lấy tiền của ai hết. Sau việc yên, có ngườiđem chuyện ấy tâu lên triều đình, nên may được ban cái ân điển Lươngdân đấy. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, người khách có ý khinh bỉ, vừa tứccười, bèn nói lớn như giọng nạt rằng: - Ông, trong nghề tứ dân, không được một nghề gì, trong gia đìnhcũng là người thừa, không còn giúp được việc gì, mà lại được tiếng đờikhen, ân vua ban. Vậy sao không xuất gia tư ra giúp cho dân nghèo, khiếnbọn vô lại trong làng xóm có nghề làm ăn, để trừ tiệt cái nguồn trộm cắp kia,như thế không những là cái công việc đời già bổ cái hư của lúc trẻ, mà cũngkhiến cho người trong làng khỏi có lời nhạo báng này nọ? Ông chủ ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi trả lời một cách chậm rãi rằng: - Nhà tôi con đông, đương cùng bà hắn lo cho chúng nó có mỗi đứamột ít tư bản cho kha khá mà tìm chưa ra cách. Tôi có phải người ngu dại,không tính đến việc con cái sau này đâu. Khách đổ giận, bước ra cửa đi thẳng một mạch. Lão lương dân kia,sau cũng không ai nhắc đến chuyện lão nữa. Đơn khiếu nại của dân Thái Bình về vụ bắt Phan Chu Trinh Công văn số 57 ngày 11-5-1908 của Thống sứ Bắc Kỳ chuyển choToàn quyền Đông Dương bản dịch một thư khiếu nại ghi là có 182 chữ kýcủa dân tỉnh Thái Bình gửi Chính phủ Pháp và Nam, minh oan cho PhanChu Trinh. Trong bản lưu không thấy chữ ký và danh sách người ký. Nộidung thư như sau: Ngày 15 tháng 3 năm Duy Tân thứ 2 Nhân dân tỉnh Thái Bình trân trọng xin các quan cai trị và các thànhviên Viện (1) xem xét giải quyết công bằng việc như sau: Có tin đồn là dân tỉnh Quảng Nam đã nổi dậy chống thuế và khôngchịu nộp thuế. Vì vậy Chính phủ đã ngờ Phan Chu Trinh là người xúi giục,đã bắt ông ta, kết án và đưa đi đày. Chúng tôi không rõ thực hư nhưng trộm nghĩ: Trung Kỳ là đất đượcbảo hộ và Chính phủ Bảo hộ muốn đưa dân chúng tôi lên đường tiến bộ vàcoi chúng tôi như được tự do. Như vậy theo lẽ công bằng thì Trung Kỳ phảiđược theo luật pháp đang thực thi tại Pháp như luật quốc tế bảo đảm cho dânđược hưởng tự do bình đẳng bác ái. Trước đây chúng tôi như mọi rợ, không ai biết luật pháp quốc tế. Nhờcó Phan Chu Trinh hiểu biết ý nghĩa của tự do đã đến giảng giải cho chúngtôi biết qua các buổi diễn thuyết của ông ta (2). Chúng tôi hết sức đau lòng khi biết chính đó là nguyên nhân làm choông ta bị bắt, bị đưa đi đày nơi xa xôi và chắc sẽ không thể sống hòa hợp vớiChính phủ được nữa. Sự việc đó làm chúng tôi có cảm tưởng là Chính phủ không ưa nhữngngười yêu thích tự do và chỉ muốn đất nước chúng tôi kiệt quệ đi. Chúng tôi chắc chắn là không phải Phan Chu Trinh đã xúi dân QuảngNam không nộp thuế vì ông đã tỏ ý không tán thành việc đó khi nó xảy ra ởvài nơi trên đất Bắc Kỳ trước khi xảy ra ở Quảng Nam. Chính phủ đã dùng vũ lực để đàn áp dân và làm hại kẻ mong muốn tựdo, vậy làm sao mà Chính phủ cho mì ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phan Chu Trinh Phan Chu Trinh (Huỳnh Thúc Kháng dịch từ Hán Văn) Tiểu dẫn: Cụ Phan Chu Trinh không chỉ là một nhà chính trị, nhà báo,nhà thơ mà còn là một người viết tiểu thuyết. Xin dịch Chuyện người lươngdân dưới đây. Bài này cụ viết năm 1904, lúc còn ở Huế, phần đông sĩ phulúc ấy truyền tụng: Người ta đồn nhau rằng ở tỉnh X, phủ X, làng X có một người tên làĐiền Xá Ông. Trước ngõ vào nhà có treo một tấm bảng sơn son đỏ chót trêncó bốn chữ thếp vàng to tướng và bóng nhoáng là Sắc tứ lương dân. Kẻqua người lại, ai cũng trầm trồ khen ngợi. Có một người khách nghe tiếngđồn tới xin ra mắt. Đến thấy một ông già ra đón. Vào thấy trong nhà bàn ghếkhay hộp đều là đồ xưa, trên tường treo mấy tấm tranh đã cũ rích. Hỏi ôngchủ đâu, thì té ra ông già ra đón mình chính là người chủ đó. Ngồi yên saumấy câu thù ứng rồi cùng nói chuyện, xem ra người chủ ăn nói lù khù, nhưlà nói không ra câu. Khách hỏi: - Ông thuở này làm nghề gì? - Tôi thuở nhỏ học chữ nho, nhưng học có 10 năm mà không hiểunghĩa được một chữ gì (biết chữ mà không hiểu nghĩa như lão này thiếu gì!).Cha mẹ giận bắt về đi cày. Tánh lại ưa phong lưu, không muốn đi chơi vớibọn chân lấm tay bùn kia, nên bỏ nghề nông sang làm nghề thương... có baonhiêu vốn làm gì lỗ nấy. Sau cũng tưởng nghề thợ dễ an, tôi học nghề thợmộc. Nhưng nó cũng rủi làm sao! Hễ đẽo cây gỗ nào thì hư cây gỗ ấy cứ bịbác thợ cả mắng chửi mãi. Vì thế nên nay vẫn không có nghề gì. - Cha mẹ ông thế nào? - Trước ở đây. Nhưng bị nhà quyền hào giàu kia bức hiếp nên dời đinơi khác. - Còn anh em? - Anh em vẫn đông, song vì đói, người đi một nơi, kẻ đi một ngả. - Vậy thì tấm bảng thếp vàng treo trước ngõ đó, vì sao mà có? - Năm trên xứ này có cái nạn mất mùa, đói, giặc cướp lung tung. Dânđói, làng xóm đây đua nhau theo bọn đó đi dựt cướp của người. Tôi vẫnkhông bằng lòng đi theo, nhưng bị chúng hiếp bắt đi, bất đắc dĩ cũng đichung trong bọn ấy, nhưng không lấy tiền của ai hết. Sau việc yên, có ngườiđem chuyện ấy tâu lên triều đình, nên may được ban cái ân điển Lươngdân đấy. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, người khách có ý khinh bỉ, vừa tứccười, bèn nói lớn như giọng nạt rằng: - Ông, trong nghề tứ dân, không được một nghề gì, trong gia đìnhcũng là người thừa, không còn giúp được việc gì, mà lại được tiếng đờikhen, ân vua ban. Vậy sao không xuất gia tư ra giúp cho dân nghèo, khiếnbọn vô lại trong làng xóm có nghề làm ăn, để trừ tiệt cái nguồn trộm cắp kia,như thế không những là cái công việc đời già bổ cái hư của lúc trẻ, mà cũngkhiến cho người trong làng khỏi có lời nhạo báng này nọ? Ông chủ ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi trả lời một cách chậm rãi rằng: - Nhà tôi con đông, đương cùng bà hắn lo cho chúng nó có mỗi đứamột ít tư bản cho kha khá mà tìm chưa ra cách. Tôi có phải người ngu dại,không tính đến việc con cái sau này đâu. Khách đổ giận, bước ra cửa đi thẳng một mạch. Lão lương dân kia,sau cũng không ai nhắc đến chuyện lão nữa. Đơn khiếu nại của dân Thái Bình về vụ bắt Phan Chu Trinh Công văn số 57 ngày 11-5-1908 của Thống sứ Bắc Kỳ chuyển choToàn quyền Đông Dương bản dịch một thư khiếu nại ghi là có 182 chữ kýcủa dân tỉnh Thái Bình gửi Chính phủ Pháp và Nam, minh oan cho PhanChu Trinh. Trong bản lưu không thấy chữ ký và danh sách người ký. Nộidung thư như sau: Ngày 15 tháng 3 năm Duy Tân thứ 2 Nhân dân tỉnh Thái Bình trân trọng xin các quan cai trị và các thànhviên Viện (1) xem xét giải quyết công bằng việc như sau: Có tin đồn là dân tỉnh Quảng Nam đã nổi dậy chống thuế và khôngchịu nộp thuế. Vì vậy Chính phủ đã ngờ Phan Chu Trinh là người xúi giục,đã bắt ông ta, kết án và đưa đi đày. Chúng tôi không rõ thực hư nhưng trộm nghĩ: Trung Kỳ là đất đượcbảo hộ và Chính phủ Bảo hộ muốn đưa dân chúng tôi lên đường tiến bộ vàcoi chúng tôi như được tự do. Như vậy theo lẽ công bằng thì Trung Kỳ phảiđược theo luật pháp đang thực thi tại Pháp như luật quốc tế bảo đảm cho dânđược hưởng tự do bình đẳng bác ái. Trước đây chúng tôi như mọi rợ, không ai biết luật pháp quốc tế. Nhờcó Phan Chu Trinh hiểu biết ý nghĩa của tự do đã đến giảng giải cho chúngtôi biết qua các buổi diễn thuyết của ông ta (2). Chúng tôi hết sức đau lòng khi biết chính đó là nguyên nhân làm choông ta bị bắt, bị đưa đi đày nơi xa xôi và chắc sẽ không thể sống hòa hợp vớiChính phủ được nữa. Sự việc đó làm chúng tôi có cảm tưởng là Chính phủ không ưa nhữngngười yêu thích tự do và chỉ muốn đất nước chúng tôi kiệt quệ đi. Chúng tôi chắc chắn là không phải Phan Chu Trinh đã xúi dân QuảngNam không nộp thuế vì ông đã tỏ ý không tán thành việc đó khi nó xảy ra ởvài nơi trên đất Bắc Kỳ trước khi xảy ra ở Quảng Nam. Chính phủ đã dùng vũ lực để đàn áp dân và làm hại kẻ mong muốn tựdo, vậy làm sao mà Chính phủ cho mì ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
danh nhân việt nam nhân vật lịch sử lịch sử việt nam tài liệu danh nhân tiểu sử danh nhân việtTài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 147 0 0 -
69 trang 87 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 60 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 58 0 0 -
11 trang 52 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0 -
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 43 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
183 trang 41 0 0