Kế sách giữ nước thời Lý-Trần _3
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 138.41 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
CHƯƠNG III XÂY DỰNG KINH TẾ LÀM CHO DÂN GIÀU NƯỚC MẠNH, “QUỐC PHÚ BINH CƯỜNG”4. Bảo vệ sức kéoTrong sản xuất nông nghiệp, nếu như đê điều, mương máng là biểu hiện tác động chủ quan của con người nhằm hạn chế tác hại và lợi dụng thuận lợi của thiên nhiên thì sức kéo lại là nguồn hỗ trợ, tạo nên sức mạnh hợp lực và hiệu quả của lao động cơ bắp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần _3 Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG IIIXÂY DỰNG KINH TẾ LÀM CHO DÂN GIÀUNƯỚC MẠNH, “QUỐC PHÚ BINH CƯỜNG”4. Bảo vệ sức kéoTrong sản xuất nông nghiệp, nếu như đê điều, mương máng là biểuhiện tác động chủ quan của con người nhằm hạn chế tác hại và lợidụng thuận lợi của thiên nhiên thì sức kéo lại là nguồn hỗ trợ, tạo nênsức mạnh hợp lực và hiệu quả của lao động cơ bắp. Đã từ lâu, từ thờisơ sử, tổ tiên ta đã biết thuần dưỡng trâu bò, để sử dụng trong càybừa, chuyên chở. Cũng từ ngày đó, trâu bò đã trở thành người bạnthân thiết, chia sẻ đói no với người dân cày cho đến khi có nền nôngnghiệp cơ khí xuất hiện thay thế. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, có thểnói đây là chân lý rút ra từ nhận thức kinh nghiệm truyền đời của cưdân nông nghiệp trồng lúa nước. Nhà nước thời Lý - Trần quan tâmđến nông nghiệp không thể không quan tâm đến bảo vệ sức kéo.Sử chép vào thời Lý Thái Tông, năm 1042, nhà vua xuống chiếu “kẻnào ăn trộm trâu của công xử phạt 100 trượng, một con phạt thànhhai con”2. Có thể nghĩ rằng vào đầu thời Lý, ruộng tư tuy đã xuấthiện, nhưng phổ biến vẫn là ruộng công, do đó, trâu bò trên đại thểcòn là vật sở hữu của nhà nước hoặc do cộng đồng hương, giáp, xãquản giữ. Do đó, nhà nước quan tâm đến bảo vệ sức kéo “của công”.Sang thế kỷ XII, khi ruộng đất tư đã phổ biến, theo đó sức kéo là trâubò cũng trở thành của tư nhân. Là của riêng nhưng chúng lại có tácđộng đến đời sống toàn xã hội như ruộng đất vậy. Hẳn rằng nhậnthức được điều này cho nên nhà Lý đã từng hạ chiếu khuyến nông,khai khẩn ruộng hoang hóa, bảo vệ sở hữu ruộng đất tư, đồng thờicũng bảo vệ sức kéo của toàn xã hội. Sử chép, năm 1117 thời LýNhân Tông “tháng hai (âm lịch) định rõ lệnh cấm giết trộm trâu”.Hoàng Thái hậu (Ỷ Lan) nói: “Gần đây ở kinh thành, hương ấp cónhiều người trốn tránh lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trămhọ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây ta đã từngnói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh cấm. Nay giết trâu lại càng nhiềuhơn trước. Bây giờ vua xuống chiếu kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80trượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân), vợ xử 80 trượng, đồlàm tang thất phụ (làm việc ở nhà chăm tằm) và bồi thường trâu,láng giềng biết mà không tố cáo phạt 80 trượng”3.Ngăn cấm việc mổ trộm trâu với những hình phạt nặng nề là vậy,nhưng dường như chưa mấy tác dụng. Năm 1123, vua Lý Nhân Tônglại xuống chiếu: “trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy, làm lợi chongười không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo, không được giếttrâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo hình luật”4. Năm 1143 vua LýAnh Tông lại xuống chiếu “thiên hạ từ nay về sau cứ ba nhà làm mộtbảo, không được mổ riêng bò trâu, nếu có việc cúng tế phải tâu xinđược chỉ rồi mới cho mổ, kẻ làm trái thì trị tội nặng, láng giềng khôngcáo giác cũng xử cùng tội”5.Trâu bò là nguồn sức kéo quan trọng, đồng thời còn là nguồn thựcphẩm và là đồ tế vật. Nhà nước thời này hiểu rõ điều đó, nhưng vẫnđặt yêu cầu của sức kéo lên hàng đầu vì mục đích mở mang nôngnghiệp. Do đó, nhà nước đã quản lý việc mổ trâu bò vì những mụcđích khác. Qua ghi chép ngắn ngủi của sử cũ, ta còn phát hiện đượcsố lượng trâu bò ở thời này không ít, có phổ biến ở các hộ nông dân.Cảnh “mấy nhà cày chung một con trâu” đã là tai họa cho nôngnghiệp, buộc nhà nước phải can thiệp, dùng đến hình thức “tam gialiên bảo” để giám sát lẫn nhau, bảo vệ trâu bò. Tìm hiểu về chủ trương phát triển nông nghiệp nhằm mục tiêu“quốc phú, binh cường” thời Lý - Trần không thể không đề cập đến“ngụ binh ư nông” được nhìn nhận từ góc độ kinh tế.Theo ghi chép cửa sử sách vào năm 1128 đời Lý Thần Tông. nhà vuachủ trương “cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng theo chế độxưa”1. Nhà sử học Phan Huy Chú khảo về “lương lộc” của quân línhcho hay về thời Lý “ngoại binh không có lương, cứ luân phiên đến hếtphiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theophép nhà Lý (...) binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng, chođỡ tốn lương”2. Phan Huy Chú còn dẫn lời Ngô Thì Sĩ nói rõ hơn vềthời Lý: ngoài quân cấm vệ “lại có chín quân như sương quân: để saikhiến làm mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hếtcanh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp lấy chứ khôngđược cấp lương. Khi có chiến tranh thì cho gọi ra lệ thuộc vào cáctướng. Nếu số quân này không đủ thì chiểu sổ dân ra tòng ngũ. Xongviệc lại cho về làm ruộng. Đó là đúng với nghĩa “ngụ binh ư nông”3.Nhiệm vụ tham gia sản xuất nông nghiệp, có lẽ đối với loại gia binhvà dân binh khỏi phải bàn vì hai loại này, tuy là binh, nhưng thời bìnhhọ không phải tập trung, chỉ tham gia sản xuất ở hương ấp hoặc cácđiền trang, thái ấp của vương hầu. Riêng với loại quân thường trực(chính binh) thuộc các “vệ” thời Lý, các “quân”, “đô” thời Trần lại baogồm hai loại: cấm quân và sương quân còn gọi là ngoại binh (quâncanh giữ cổng thành, phục vụ bên ngoài) ở thời Lý; thời Trần gọi làquân túc vệ và quân các đạo (như ngoại binh thời Lý).Theo sử sách, ta lại biết nhà nước thời Lý chỉ cấp lương bổng choquân cấm vệ hoặc quân túc vệ. Đối với loại quân này: theo Phan HuyChú được cấp 10 bó lúa mỗi năm làm lương bổng. Nhà Trần cấp chobao nhiêu không rõ4. Nguồn lương thực nuôi quân không ngoài tôthuế thu của dân. Năm 1092 đời Lý Nhân Tông “định sổ ruộng, thu tômỗi mẫu ba thăng5 để cấp lương cho quân”6.Về số lượng loại quân này sử chỉ cho biết thời Lý năm 1028 đặt 10 vệcấm quân, đến năm 1059 tăng lên 16 vệ, thích vào trán ba chữ “thiêntử quân”7, ước khoảng 3.200 người. Số sương quân và quân các đạo(ngoại binh) có nhiệm vụ thay phiên nhau cày ruộng tự túc lươngthực, hẳn là với số lượng đông hơn nhiều mà tài liệu chưa cho phépxác định, dù chỉ ước đoán. Điều đó có nghĩa là việc xây dựng một độiquân đông đảo không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Với chínhsách “ngụ binh ư nông”, không những nông dân không phải trích ramột lượng sản phẩm lớn đề nuô ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần _3 Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG IIIXÂY DỰNG KINH TẾ LÀM CHO DÂN GIÀUNƯỚC MẠNH, “QUỐC PHÚ BINH CƯỜNG”4. Bảo vệ sức kéoTrong sản xuất nông nghiệp, nếu như đê điều, mương máng là biểuhiện tác động chủ quan của con người nhằm hạn chế tác hại và lợidụng thuận lợi của thiên nhiên thì sức kéo lại là nguồn hỗ trợ, tạo nênsức mạnh hợp lực và hiệu quả của lao động cơ bắp. Đã từ lâu, từ thờisơ sử, tổ tiên ta đã biết thuần dưỡng trâu bò, để sử dụng trong càybừa, chuyên chở. Cũng từ ngày đó, trâu bò đã trở thành người bạnthân thiết, chia sẻ đói no với người dân cày cho đến khi có nền nôngnghiệp cơ khí xuất hiện thay thế. “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, có thểnói đây là chân lý rút ra từ nhận thức kinh nghiệm truyền đời của cưdân nông nghiệp trồng lúa nước. Nhà nước thời Lý - Trần quan tâmđến nông nghiệp không thể không quan tâm đến bảo vệ sức kéo.Sử chép vào thời Lý Thái Tông, năm 1042, nhà vua xuống chiếu “kẻnào ăn trộm trâu của công xử phạt 100 trượng, một con phạt thànhhai con”2. Có thể nghĩ rằng vào đầu thời Lý, ruộng tư tuy đã xuấthiện, nhưng phổ biến vẫn là ruộng công, do đó, trâu bò trên đại thểcòn là vật sở hữu của nhà nước hoặc do cộng đồng hương, giáp, xãquản giữ. Do đó, nhà nước quan tâm đến bảo vệ sức kéo “của công”.Sang thế kỷ XII, khi ruộng đất tư đã phổ biến, theo đó sức kéo là trâubò cũng trở thành của tư nhân. Là của riêng nhưng chúng lại có tácđộng đến đời sống toàn xã hội như ruộng đất vậy. Hẳn rằng nhậnthức được điều này cho nên nhà Lý đã từng hạ chiếu khuyến nông,khai khẩn ruộng hoang hóa, bảo vệ sở hữu ruộng đất tư, đồng thờicũng bảo vệ sức kéo của toàn xã hội. Sử chép, năm 1117 thời LýNhân Tông “tháng hai (âm lịch) định rõ lệnh cấm giết trộm trâu”.Hoàng Thái hậu (Ỷ Lan) nói: “Gần đây ở kinh thành, hương ấp cónhiều người trốn tránh lấy việc ăn trộm trâu làm nghề nghiệp, trămhọ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một con trâu. Trước đây ta đã từngnói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh cấm. Nay giết trâu lại càng nhiềuhơn trước. Bây giờ vua xuống chiếu kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80trượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân), vợ xử 80 trượng, đồlàm tang thất phụ (làm việc ở nhà chăm tằm) và bồi thường trâu,láng giềng biết mà không tố cáo phạt 80 trượng”3.Ngăn cấm việc mổ trộm trâu với những hình phạt nặng nề là vậy,nhưng dường như chưa mấy tác dụng. Năm 1123, vua Lý Nhân Tônglại xuống chiếu: “trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy, làm lợi chongười không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo, không được giếttrâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo hình luật”4. Năm 1143 vua LýAnh Tông lại xuống chiếu “thiên hạ từ nay về sau cứ ba nhà làm mộtbảo, không được mổ riêng bò trâu, nếu có việc cúng tế phải tâu xinđược chỉ rồi mới cho mổ, kẻ làm trái thì trị tội nặng, láng giềng khôngcáo giác cũng xử cùng tội”5.Trâu bò là nguồn sức kéo quan trọng, đồng thời còn là nguồn thựcphẩm và là đồ tế vật. Nhà nước thời này hiểu rõ điều đó, nhưng vẫnđặt yêu cầu của sức kéo lên hàng đầu vì mục đích mở mang nôngnghiệp. Do đó, nhà nước đã quản lý việc mổ trâu bò vì những mụcđích khác. Qua ghi chép ngắn ngủi của sử cũ, ta còn phát hiện đượcsố lượng trâu bò ở thời này không ít, có phổ biến ở các hộ nông dân.Cảnh “mấy nhà cày chung một con trâu” đã là tai họa cho nôngnghiệp, buộc nhà nước phải can thiệp, dùng đến hình thức “tam gialiên bảo” để giám sát lẫn nhau, bảo vệ trâu bò. Tìm hiểu về chủ trương phát triển nông nghiệp nhằm mục tiêu“quốc phú, binh cường” thời Lý - Trần không thể không đề cập đến“ngụ binh ư nông” được nhìn nhận từ góc độ kinh tế.Theo ghi chép cửa sử sách vào năm 1128 đời Lý Thần Tông. nhà vuachủ trương “cho sáu quân thay phiên nhau về làm ruộng theo chế độxưa”1. Nhà sử học Phan Huy Chú khảo về “lương lộc” của quân línhcho hay về thời Lý “ngoại binh không có lương, cứ luân phiên đến hếtphiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theophép nhà Lý (...) binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng, chođỡ tốn lương”2. Phan Huy Chú còn dẫn lời Ngô Thì Sĩ nói rõ hơn vềthời Lý: ngoài quân cấm vệ “lại có chín quân như sương quân: để saikhiến làm mọi việc, mỗi tháng đến phiên một lần gọi là đến canh, hếtcanh cho về nhà cày cấy hoặc làm công nghệ, tự cấp lấy chứ khôngđược cấp lương. Khi có chiến tranh thì cho gọi ra lệ thuộc vào cáctướng. Nếu số quân này không đủ thì chiểu sổ dân ra tòng ngũ. Xongviệc lại cho về làm ruộng. Đó là đúng với nghĩa “ngụ binh ư nông”3.Nhiệm vụ tham gia sản xuất nông nghiệp, có lẽ đối với loại gia binhvà dân binh khỏi phải bàn vì hai loại này, tuy là binh, nhưng thời bìnhhọ không phải tập trung, chỉ tham gia sản xuất ở hương ấp hoặc cácđiền trang, thái ấp của vương hầu. Riêng với loại quân thường trực(chính binh) thuộc các “vệ” thời Lý, các “quân”, “đô” thời Trần lại baogồm hai loại: cấm quân và sương quân còn gọi là ngoại binh (quâncanh giữ cổng thành, phục vụ bên ngoài) ở thời Lý; thời Trần gọi làquân túc vệ và quân các đạo (như ngoại binh thời Lý).Theo sử sách, ta lại biết nhà nước thời Lý chỉ cấp lương bổng choquân cấm vệ hoặc quân túc vệ. Đối với loại quân này: theo Phan HuyChú được cấp 10 bó lúa mỗi năm làm lương bổng. Nhà Trần cấp chobao nhiêu không rõ4. Nguồn lương thực nuôi quân không ngoài tôthuế thu của dân. Năm 1092 đời Lý Nhân Tông “định sổ ruộng, thu tômỗi mẫu ba thăng5 để cấp lương cho quân”6.Về số lượng loại quân này sử chỉ cho biết thời Lý năm 1028 đặt 10 vệcấm quân, đến năm 1059 tăng lên 16 vệ, thích vào trán ba chữ “thiêntử quân”7, ước khoảng 3.200 người. Số sương quân và quân các đạo(ngoại binh) có nhiệm vụ thay phiên nhau cày ruộng tự túc lươngthực, hẳn là với số lượng đông hơn nhiều mà tài liệu chưa cho phépxác định, dù chỉ ước đoán. Điều đó có nghĩa là việc xây dựng một độiquân đông đảo không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Với chínhsách “ngụ binh ư nông”, không những nông dân không phải trích ramột lượng sản phẩm lớn đề nuô ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
giáo án lịch sử bài giảng lịch sử lịch sử THPT lịch sử Việt Nam tài liệu lịch sửGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử 8 (Trọn bộ cả năm)
272 trang 195 0 0 -
Giáo án Lịch sử 6 sách Chân trời sáng tạo (Trọn bộ cả năm)
173 trang 152 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 141 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 12: Lịch sử địa phương Quảng Nam
11 trang 102 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 92 1 0 -
69 trang 69 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 58 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 54 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 10: Lịch sử địa phương Quảng Nam
10 trang 50 0 0 -
11 trang 46 0 0