Kế sách giữ nước thời Lý-Trần
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 141.75 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
CHƯƠNG VI.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔN KHÉO NHẰM NGĂN NGỪA CHIẾN TRANH, GIỮ YÊN BIÊN THÙY, KIẾN TẠO HÒA BÌNH, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC.Từ thế kỷ X, với bộ máy quản lý đất nước thời tiết độ sứ họ Khúc, họ Dương đến các vương triều Ngô, Đinh, tiền Lê, hoạt động đối ngoại đã từng bước được triển khai, dần dần vào nền nếp giành được những thành tựu quan trọng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG VI.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔN KHÉO NHẰMNGĂN NGỪA CHIẾN TRANH, GIỮ YÊN BIÊNTHÙY, KIẾN TẠO HÒA BÌNH, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC.Từ thế kỷ X, với bộ máy quản lý đất nước thời tiết độ sứ họ Khúc, họDương đến các vương triều Ngô, Đinh, tiền Lê, hoạt động đối ngoại đãtừng bước được triển khai, dần dần vào nền nếp giành được nhữngthành tựu quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là bài học kinh nghiệmvề chính sách đối ngoại trong thời chiến, cũng như thời bình vì mụctiêu giữ nước và dựng nước của một thế kỷ đầy biến động.Vào các thế kỷ XI - XIV, trên con đường phục hưng, phát triển toàndiện của quốc gia Đại Việt, các nhà nước quân chủ trung ương tậpquyền Lý - Trần đã thừa hưởng kinh nghiệm, kế tục hoạt động đốingoại từ thế kỷ trước, nâng lên thành quốc sách với đường lối chínhsách khôn khéo có hiệu quả trong bối cảnh lịch sử mới.Để nhận thức về hoạt động đối ngoại thời Lý - Trần chúng ta sẽ lầnlượt đề cập đến những vấn đề sau đây:I. ĐẶC ĐIỂM VỀ QUAN HỆ VÀ TƯƠNG QUAN CỦA ĐẠI VIỆT TRONGKHU VỰC.Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước cho đến thế kỷ XIchứng minh khá rõ ràng quốc gia Đại Việt đã tồn tại và phát triểntrong mối quan hệ phức tạp không mấy thuận lợi, với các nước lánggiềng.Cho dù có ai đó vô tình hay cố ý từ nghi ngờ đi đến phủ định quốc giaVăn Lang - Âu Lạc thời sơ sử từng tồn tại độc lập trên vùng lưu vựcsông Hồng, sông Mã, sông Lam từ thiên niên kỷ I trước công nguyên,thì thực tế lịch sử, không chỉ qua truyền thuyết, huyền thoại được cốđịnh thành văn bản, mà qua các tài liệu sử học, khảo cổ học, dân tộchọc, nhân chủng học, địa lý lịch sử... đã khẳng định ngược lại. Cho dùsự phát triển của quốc gia đó có trải qua những bước thăng trầm,không bình thường, thì Văn Lang - Âu Lạc - Vạn Xuân - Đại Cồ Việt -Đại Việt vẫn hiện ra như một dòng chảy, quanh co, gấp khúc, nhưngmãnh liệt và liên tục trong không gian, thời gian lịch sử đã được xácđịnh.Tách ra từ khối Bách Việt, người Lạc Việt và một bộ phận người TâyÂu (còn gọi là người Tây Việt), đã dựng nên nước Văn Lang - Âu Lạcđộc lập, tự chủ trong khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa cổ đại vớinền văn minh sông Hoàng - một nền văn minh lớn của nhân loại ởphương Đông cổ đại. Thế nhưng sức hấp dẫn, lôi cuốn của văn minhsông Hoàng không diễn ra trong hòa bình êm ả. Nó được thể hiệnbằng con đường áp đặt, chinh phục của các nhà nước quân chủ cầmquyền, theo đó là một bộ máy đô hộ. Kinh đô Cổ Loa, với hàng vạnmũi tên đồng đã được khai quật, nhiều vết tích của hệ thống thànhhào cùng với những địa danh, nhân danh gắn liền với nhân vật lịch sửThục An Dương Vương của quốc gia Âu Lạc đâu phải chỉ là chuyệnhuyền thoại? Cũng như quốc gia đó bị rơi vào ách đô hộ ngoại bangqua các vương triều Tần, Hán, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường trên mộtngàn năm là chuyện của quả khứ lịch sử rõ ràng. Nếu như các cuộckhởi nghĩa và chiến tranh giữ nước của Hai Bà Trưng (40 – 43), BàTriệu (248), Lý Nam Đế với nước Vạn Xuân (từ 544 đến 605), MaiThúc Loan (Mai Hắc Đế - 722), Bố cái đại vương Phùng Hưng (791)chưa giành được thắng lợi, thì đến đầu thế kỷ X từ mở đầu của họKhúc (905) đến Ngô Quyền với chiến thằng Bạch Đằng (938) đã “kếtthúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm. Dân tộc ta đãgiành lại được quyền làm chủ đất nước. Một thời kỳ độc lập lâu dàicủa dân tộc bắt đầu”1.Thế nhưng sau loạn “năm đời mười nước”, nhà Tống lên cầm quyền ởTrung Hoa, giấc mộng chiếm lại quốc gia của người Việt ở phía namvẫn chưa dứt đối với họ. Hai lần xâm lược của nhà Tống vào thời TiềnLê (cuối năm 980 đầu 981) và thời Lý (1077) đã chứng minh điều đó.Khi Trung Hoa bị người Mông Cổ chinh phục dẫn đến nền thống trị củanhà Nguyên (từ năm 1271 đến năm 1368), lại một phen quốc gia ĐạiViệt phải chịu đựng ba lần xâm lược các năm 1257 - 1258, 1285,1287 - 1288. Nhà Minh thay thế nhà Nguyên năm 1368, nguy cơ bịxâm lược lại đến gần với Đại Việt, đã thành hiện thực năm 1406 dướithời nhà Hồ.Từ những sự kiện lịch sử nói trên, dù không muốn cũng phải thừanhận một sự thực: quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần đất không rộng,người không đông, vừa mới giành lại được độc lập tự chủ vẫn nằmtrong mưu đồ thôn tính, lập lại ách đô hộ của các vương triều TrungHoa. Tình thế đó đặt các vương triều Lý- Trần ở một thế ứng xử, quanhệ rất khó khăn, phức tạp để đất nước được tồn tại và tiếp tục pháttriển. Các vương triều Tống, Nguyên, Minh không nhìn nhận Đại Việtnhư một quốc gia độc lập có chủ quyền. Trong con mắt của họ, ĐạiViệt chỉ là một nước nhỏ, một chư hầu của mình.Ở phía tây - bắc, vào thế kỷ XI, Đại Việt giáp với nước Đại Lý (NamChiếu cũ), một quốc gia của người Di, người Thái thành lập vào nửađầu thế kỷ VIII, trung tâm là Đại Lý (Côn Minh - Trung Quốc). Đó làmột quốc gia mạnh, giáp Ấn Độ ở phía tây, Thổ Phồn (Tây Tạng) ởphía bắc, còn phía đông nam giáp Đại Việt. Từ nửa sau thế kỷ VIIInhà Đường suy yếu, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kế sách giữ nước thời Lý-Trần Kế sách giữ nước thời Lý-Trần CHƯƠNG VI.CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔN KHÉO NHẰMNGĂN NGỪA CHIẾN TRANH, GIỮ YÊN BIÊNTHÙY, KIẾN TẠO HÒA BÌNH, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC.Từ thế kỷ X, với bộ máy quản lý đất nước thời tiết độ sứ họ Khúc, họDương đến các vương triều Ngô, Đinh, tiền Lê, hoạt động đối ngoại đãtừng bước được triển khai, dần dần vào nền nếp giành được nhữngthành tựu quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là bài học kinh nghiệmvề chính sách đối ngoại trong thời chiến, cũng như thời bình vì mụctiêu giữ nước và dựng nước của một thế kỷ đầy biến động.Vào các thế kỷ XI - XIV, trên con đường phục hưng, phát triển toàndiện của quốc gia Đại Việt, các nhà nước quân chủ trung ương tậpquyền Lý - Trần đã thừa hưởng kinh nghiệm, kế tục hoạt động đốingoại từ thế kỷ trước, nâng lên thành quốc sách với đường lối chínhsách khôn khéo có hiệu quả trong bối cảnh lịch sử mới.Để nhận thức về hoạt động đối ngoại thời Lý - Trần chúng ta sẽ lầnlượt đề cập đến những vấn đề sau đây:I. ĐẶC ĐIỂM VỀ QUAN HỆ VÀ TƯƠNG QUAN CỦA ĐẠI VIỆT TRONGKHU VỰC.Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước cho đến thế kỷ XIchứng minh khá rõ ràng quốc gia Đại Việt đã tồn tại và phát triểntrong mối quan hệ phức tạp không mấy thuận lợi, với các nước lánggiềng.Cho dù có ai đó vô tình hay cố ý từ nghi ngờ đi đến phủ định quốc giaVăn Lang - Âu Lạc thời sơ sử từng tồn tại độc lập trên vùng lưu vựcsông Hồng, sông Mã, sông Lam từ thiên niên kỷ I trước công nguyên,thì thực tế lịch sử, không chỉ qua truyền thuyết, huyền thoại được cốđịnh thành văn bản, mà qua các tài liệu sử học, khảo cổ học, dân tộchọc, nhân chủng học, địa lý lịch sử... đã khẳng định ngược lại. Cho dùsự phát triển của quốc gia đó có trải qua những bước thăng trầm,không bình thường, thì Văn Lang - Âu Lạc - Vạn Xuân - Đại Cồ Việt -Đại Việt vẫn hiện ra như một dòng chảy, quanh co, gấp khúc, nhưngmãnh liệt và liên tục trong không gian, thời gian lịch sử đã được xácđịnh.Tách ra từ khối Bách Việt, người Lạc Việt và một bộ phận người TâyÂu (còn gọi là người Tây Việt), đã dựng nên nước Văn Lang - Âu Lạcđộc lập, tự chủ trong khu vực ảnh hưởng của Trung Hoa cổ đại vớinền văn minh sông Hoàng - một nền văn minh lớn của nhân loại ởphương Đông cổ đại. Thế nhưng sức hấp dẫn, lôi cuốn của văn minhsông Hoàng không diễn ra trong hòa bình êm ả. Nó được thể hiệnbằng con đường áp đặt, chinh phục của các nhà nước quân chủ cầmquyền, theo đó là một bộ máy đô hộ. Kinh đô Cổ Loa, với hàng vạnmũi tên đồng đã được khai quật, nhiều vết tích của hệ thống thànhhào cùng với những địa danh, nhân danh gắn liền với nhân vật lịch sửThục An Dương Vương của quốc gia Âu Lạc đâu phải chỉ là chuyệnhuyền thoại? Cũng như quốc gia đó bị rơi vào ách đô hộ ngoại bangqua các vương triều Tần, Hán, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường trên mộtngàn năm là chuyện của quả khứ lịch sử rõ ràng. Nếu như các cuộckhởi nghĩa và chiến tranh giữ nước của Hai Bà Trưng (40 – 43), BàTriệu (248), Lý Nam Đế với nước Vạn Xuân (từ 544 đến 605), MaiThúc Loan (Mai Hắc Đế - 722), Bố cái đại vương Phùng Hưng (791)chưa giành được thắng lợi, thì đến đầu thế kỷ X từ mở đầu của họKhúc (905) đến Ngô Quyền với chiến thằng Bạch Đằng (938) đã “kếtthúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm. Dân tộc ta đãgiành lại được quyền làm chủ đất nước. Một thời kỳ độc lập lâu dàicủa dân tộc bắt đầu”1.Thế nhưng sau loạn “năm đời mười nước”, nhà Tống lên cầm quyền ởTrung Hoa, giấc mộng chiếm lại quốc gia của người Việt ở phía namvẫn chưa dứt đối với họ. Hai lần xâm lược của nhà Tống vào thời TiềnLê (cuối năm 980 đầu 981) và thời Lý (1077) đã chứng minh điều đó.Khi Trung Hoa bị người Mông Cổ chinh phục dẫn đến nền thống trị củanhà Nguyên (từ năm 1271 đến năm 1368), lại một phen quốc gia ĐạiViệt phải chịu đựng ba lần xâm lược các năm 1257 - 1258, 1285,1287 - 1288. Nhà Minh thay thế nhà Nguyên năm 1368, nguy cơ bịxâm lược lại đến gần với Đại Việt, đã thành hiện thực năm 1406 dướithời nhà Hồ.Từ những sự kiện lịch sử nói trên, dù không muốn cũng phải thừanhận một sự thực: quốc gia Đại Việt thời Lý - Trần đất không rộng,người không đông, vừa mới giành lại được độc lập tự chủ vẫn nằmtrong mưu đồ thôn tính, lập lại ách đô hộ của các vương triều TrungHoa. Tình thế đó đặt các vương triều Lý- Trần ở một thế ứng xử, quanhệ rất khó khăn, phức tạp để đất nước được tồn tại và tiếp tục pháttriển. Các vương triều Tống, Nguyên, Minh không nhìn nhận Đại Việtnhư một quốc gia độc lập có chủ quyền. Trong con mắt của họ, ĐạiViệt chỉ là một nước nhỏ, một chư hầu của mình.Ở phía tây - bắc, vào thế kỷ XI, Đại Việt giáp với nước Đại Lý (NamChiếu cũ), một quốc gia của người Di, người Thái thành lập vào nửađầu thế kỷ VIII, trung tâm là Đại Lý (Côn Minh - Trung Quốc). Đó làmột quốc gia mạnh, giáp Ấn Độ ở phía tây, Thổ Phồn (Tây Tạng) ởphía bắc, còn phía đông nam giáp Đại Việt. Từ nửa sau thế kỷ VIIInhà Đường suy yếu, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
giáo án lịch sử bài giảng lịch sử lịch sử THPT lịch sử Việt Nam tài liệu lịch sửGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử 8 (Trọn bộ cả năm)
272 trang 210 0 0 -
Giáo án Lịch sử 6 sách Chân trời sáng tạo (Trọn bộ cả năm)
173 trang 155 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 12: Lịch sử địa phương Quảng Nam
11 trang 106 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 97 1 0 -
69 trang 80 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 10: Lịch sử địa phương Quảng Nam
10 trang 53 0 0 -
11 trang 51 0 0