Danh mục

Kết cấu hạ tầng cho nghệ thuật

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 151.67 KB      Lượt xem: 22      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

(Di sản quốc gia lại do xã huyện quản lý là một nghịch lý và thực tế rất đáng quan ngại. Trong ảnh: Tượng phật Quan Âm ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) do Trương tiên sinh hoàn thành vào năm 1656) Việc quy hoạch thẩm mỹ, phát triển ngôn ngữ nghệ thuật hay thiết kế một “thời kỳ phục hưng”, một “thế hệ vàng”… là không tưởng và phản nghệ thuật. Nhưng quy hoạch phát triển hạ tầng cho một đời sống nghệ thuật, cho sự hưởng thụ nghệ thuật của người dân, cho sự tự do sáng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết cấu hạ tầng cho nghệ thuật Kết cấu hạ tầng cho nghệ thuật (Di sản quốc gia lại do xã huyện quản lý là một nghịch lý và thực tế rất đáng quan ngại. Trong ảnh: Tượng phật Quan Âm ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) do Trương tiên sinh hoàn thành vào năm 1656) Việc quy hoạch thẩm m ỹ, phát triển ngôn ngữ nghệ thuật hay thiết kế một “thời kỳ phục hưng”, một “thế hệ vàng”… là không tưởng và phản nghệ thuật. Nhưng quy hoạch phát triển hạ tầng cho một đời sống nghệ thuật, cho sự hưởng thụ nghệ thuật của người dân, cho sự tự do sáng tạo của nghệ sĩ lại là tối quan trọng, là việc Nhà nước cần/phải làm, là điều chỉ có Nhà nước mới làm được cho nghệ thuật. Thực tế lịch sử chứng minh rằng nghệ thuật không bao giờ phát triển theo một “quy hoạch”. Không có chính sách, nghị quyết hay kế hoạch, dự án nào chuẩn bị cho việc xuất hiện các kiệt tác hay các bậc thầy ở mọi ngành sáng tạo nghệ thuật (từ Trương tiên sinh tới Nguyễn Phan Chánh, từ Nguyễn Du đến Hàn Mặc Tử, từ Chèo cổ tới Cải lương…). Gần đây cũng có thể thấy theo “quy hoạch” “định hướng” của hiện thực XHCN thì các danh họa Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm… đều “lệch hướng”, “ngoài quy hoạch” thậm chí “có vấn đề” và đã từng bị lãng quên hay phủ nhận. Hội họa Đổi mới cũng không nằm trong quy hoạch nào. Rất nhiều người quản lý m ỹ thuật nói riêng và văn nghệ nói chung hiện nay từng là những người quyết liệt phản đối Đổi mới hoặc cơ hội bàng quan để sau này “thay đổi quan điểm”, “ăn theo” Đổi mới. Và sự phát triển của nghệ thuật đương đại 20 năm nay là sự bất ngờ, gây lúng túng, đau đầu cho quản lý hơn là theo một “quy hoạch” định hướng nào của lãnh đạo và các cấp. Việc quy hoạch thẩm m ỹ, phát triển ngôn ngữ nghệ thuật hay thiết kế một “thời kỳ phục hưng”, một “thế hệ vàng”… là không tưởng và phản nghệ thuật. Mặt khác, quy hoạch phát triển hạ tầng cho một đời sống nghệ thuật, cho sự hưởng thụ nghệ thuật của người dân, cho sự tự do sáng tạo của nghệ sĩ lại là tối quan trọng, là việc Nhà nước cần/phải làm, là điều duy nhất chỉ có Nhà nước mới làm được cho nghệ thuật nước nhà. Xây dựng cơ cấu hạ tầng cũng là cách thức định hướng, lãnh đạo nghệ thuật duy nhất đúng và khả thi của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên cơ cấu hạ tầng ấy lại cần phi hành chính hóa sâu sắc mới tạo được không gian sáng tạo và hưởng thụ nghệ thuật thực sự, nâng tầm văn hóa của quốc gia. Ngược lại hành chính hóa càng cao thì đời sống văn hóa càng nghèo nàn, không khí sáng tạo càng tù túng. Vì vậ y tôi hết sức hoan nghênh “Dự thảo Quy hoạch phát triển m ỹ thuật đến 2020, tầm nhìn 2030” của Cục Mỹ thuật đã đặt trọng tâm vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng cho m ỹ thuật. Đồng thời theo tôi nên đổi tên Quy hoạch này thành Quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng cho nghệ thuật thay vì quy hoạch “phát triển m ỹ thuật” chung chung… Kết cấu hạ tầng cho nghệ thuật bao gồm ba phần rõ rệt: hạ tầng kiến thức, trình độ và mức hưởng thụ nghệ thuật; hạ tầng cơ sở vật chất và các thiết chế văn hóa; hạ tầng luật pháp liên quan tới nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung. Sau đây xin mạn phép nêu những ý kiến cụ thể về xây dựng cơ cấu hạ tầng cho phát triển m ỹ thuật: * Đối với nghệ thuật truyền thống và di sản: Các di sản m ỹ thuật tản mạn ở các địa phương, làng xóm là đặc điểm lớn nhất của m ỹ thuật VN vì vậy cần có phương án quy tụ, bảo vệ, bảo quản, quảng bá ngăn chặn tình trạng chảy máu di sản hoặc tàn phá di sản. Cần có một danh mục kiệt tác quốc gia, báu vật quốc gia để quy tụ bảo vệ và quảng bá. Di sản quốc gia quốc tế lại do xã huyện quản lý là một nghịch lý và thực tế rất đáng quan ngại, cần giải pháp hữu hiệu. Ta sẽ làm gì nếu một Tháp Chăm hay tượng ở chùa Bút Tháp, chùa Dâu, chùa Tây Phương bị đánh cắp, phá hủ y hay hỏa hoạn thiêu rụi. Cần một luật và các quy chế về phục chế, phục dựng, ứng xử với di sản để ngăn chặn tình trạng phá hoại, giết chết di sản qua phục chế, phục dựng, phỏng dựng, làm du lịch bừa bãi hiện nay. Trước mắt có thể cấm phục chế nếu không đủ sở cứ, điều kiện và chỉ bảo quản khẩn cấp khi có nguy cơ hư hỏng. - Cần một dự án xây dựng một (hoặc vài) trung tâm phục chế, đào tạo một đội ngũ chuyên gia và thợ phục chế cho các nghề m ỹ thuật truyền thống (thí dụ khoảng 300 người cho 20 nghề chính?) Tất cả các di sản quốc gia chỉ được phục chế bởi trung tâm này với đội ngũ chuyên gia và thợ lành nghề của nó. Kinh nghiệm cho thấy khi tiến hành phục chế chất lượng cao các di sản thì người ta cũng đồng thời khôi phục được hàng loạt nghề truyền thống chất lượng cao, quay lại phục vụ cho sáng tạo, sản xuất và xuất khẩu mới. * Đối với trường, viện và tạp chí - Chuyển hướng đào tạo từ việc lấy rèn kỹ năng, truyền nghề làm trọng tâm sang đào tạo trí thức thực thụ, lấy nền tảng tri thức và năng lực sáng tạo làm trọng tâm. Bên cạnh việc nâng cấp điều kiện vật chất cho các đại học m ỹ thuật, cần coi liên kết quốc tế đào tạo sau đại học là nguyên tắc qua đó nâng trình độ giảng viên và sinh viên ngang tầm quốc tế - khu vực, khắc phục tình trạng “chuẩn hóa” giảng viên bằng bằng cấp nội địa mang tính hình thức và chất lượng thấp như hiện nay. Nhà trường cần chuyển từ nơi học nghề là chính như hiện nay thành những trung tâm, không gian sáng tạo của cả giảng viên và sinh viên. - Xây dựng một Viện nghiên cứu Mỹ thuật mạnh (có thể tại ĐH Mỹ thuật VN ở Hà Nội) quy tụ một đội ngũ chuyên gia tinh hoa và có cơ sở vật chất hiện đại. Hợp nhất nghiên cứu lịch sử lý luận với đào tạo lịch sử lý luận và nghiên cứu nghệ thuật học để ĐH Mỹ thuật cũng là đại học nghiên cứu, có thể tự chủ được về chuyên môn. Xây dựng Viện nghiên cứu Mỹ thuật (cũng như Trung tâm Phục chế) nên là một dự án trọng điểm quốc gia. - Phát triển hai tạp chí m ỹ thuật đạt tầm quốc gia và khu vực. Một tạp chí mạnh về nghiên cứu có thể trên cơ sở tạp chí nghiên cứu m ỹ thuật của ĐH Mỹ thuật VN hiện nay. Một tạp chí mạnh về phê bình có thể ở TP. HCM. Các tạp chí này cần là song ngữ, cập nhật các tư liệu, tranh luận, thành tựu nghiên cứu của VN bằng t ...

Tài liệu được xem nhiều: