Nuôi lợn có thể tạo cơ hội đáng kể cải thiện sinh kế cho nhiều hộ gia đình tại vùng Tây bắc Việt Nam, một trong những khu vực vùng xa và nghèo nhất của Việt Nam (Huyen và cộng sự, 2016). Theo truyền thống, chăn nuôi lợn là một phần quan trọng trong hệ thống nông nghiệp của khu vực này, được chăn thả tự nhiên, ăn lá rau rừng và ăn các sản phẩm dư thừa sau thu hoạch tạo ra sản phẩm với chi phí thấp và chất lượng được cho là cao. Trong những năm gần đây, các hệ thống chăn nuôi thâm canh đã phát triển với việc áp dụng các giống lợn mới và các giống ngô lai làm thức ăn gia súc. Điều này dẫn tới ngô trở thành cây trồng chiếm ưu thế tại vùng cao, được trồng trên sườn đồi và độc canh, dẫn đến sói mòn đất đáng kể cũng như suy giảm chất màu trong đất (Nguyễn và cộng sự, 2016). Nghiên cứu này nhằm xác định những rào cản và cơ hội chính trong việc lồng ghép chăn nuôi lợn với canh tác ngô cải tiến nhằm cải thiện thu nhập của các hộ nông dân quy mô nhỏ trong khi tạo ra một hệ thống bền vững hơn với môi trường bằng cách tìm hiểu hệ thống luân canh đa dạng và có lợi nhuận hơn cũng như cải thiện độ màu mỡ của đất thông qua chu kỳ dinh dưỡng và chất hữu cơ quan trọng. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về các phương án hứa hẹn nhất.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Kết hợp sản xuất ngô và lợn: Bài học nâng cao sinh kế cho hộ nuôi lợn và cải thiện việc sử dụng đất của các hộ trồng ngô
Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người
Kết hợp sản xuất ngô và lợn: Bài học nâng cao sinh kế cho hộ
nuôi lợn và cải thiện việc sử dụng đất của các hộ trồng ngô
Isabelle Baltenweck1, Nguyễn Thị Thịnh1, Nguyễn Thị Dương Nga2, Phạm
Văn Hùng2, Nguyễn Hữu Nhuần2, Nguyễn Thị Thu Huyền2, Ma. Lucila
Lapar1 và Nils Teufel1
Cơ quan
1
Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế, Nairobi, Kenya.
2
Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam
NÚI CƠ HỘI CHO PHÁT TRIỂN
Tác giả đại diện
i.baltenweck@cgiar.org
Từ khóa
Sinh kế nông thôn, tác động qua lại giữa trồng trọt – chăn nuôi, thể chế
Giới thiệu
Nuôi lợn có thể tạo cơ hội đáng kể cải thiện sinh kế cho nhiều hộ gia đình
tại vùng Tây bắc Việt Nam, một trong những khu vực vùng xa và nghèo
181
nhất của Việt Nam (Huyen và cộng sự, 2016). Theo truyền thống, chăn
nuôi lợn là một phần quan trọng trong hệ thống nông nghiệp của khu vực
này, được chăn thả tự nhiên, ăn lá rau rừng và ăn các sản phẩm dư thừa
sau thu hoạch tạo ra sản phẩm với chi phí thấp và chất lượng được cho
là cao. Trong những năm gần đây, các hệ thống chăn nuôi thâm canh đã
phát triển với việc áp dụng các giống lợn mới và các giống ngô lai làm thức
ăn gia súc. Điều này dẫn tới ngô trở thành cây trồng chiếm ưu thế tại vùng
cao, được trồng trên sườn đồi và độc canh, dẫn đến sói mòn đất đáng
kể cũng như suy giảm chất màu trong đất (Nguyễn và cộng sự, 2016).
Nghiên cứu này nhằm xác định những rào cản và cơ hội chính trong việc
lồng ghép chăn nuôi lợn với canh tác ngô cải tiến nhằm cải thiện thu nhập
của các hộ nông dân quy mô nhỏ trong khi tạo ra một hệ thống bền vững
hơn với môi trường bằng cách tìm hiểu hệ thống luân canh đa dạng và có
lợi nhuận hơn cũng như cải thiện độ màu mỡ của đất thông qua chu kỳ
dinh dưỡng và chất hữu cơ quan trọng. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho
những nghiên cứu sâu hơn về các phương án hứa hẹn nhất.
Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người
Phương pháp nghiên cứu
Đầu tiên, việc rà soát các nghiên cứu đã tiến về trồng ngô và nuôi lợn tại
Việt Nam nói chung và tại khu vực tây bắc nói riêng được triển khai. Sau
đó dữ liệu sơ cấp được thu thập tại 4 xã thuộc tỉnh Hòa Bình và Sơn La
vào tháng 3 năm 2017. Những tỉnh này được lựa chọn bởi do có diện tích
trồng ngô và số lượng lợn nuôi lớn nhất tại khu vực Tây bắc. Hòa Bình cũng
là địa điểm nghiên cứu của dự án SafePORK, một dự án đã được lên kế
hoạch của ACIAR nhằm hỗ trợ chăn nuôi lợn an toàn. Tại mỗi tỉnh, chúng
tôi lựa chọn 1 xã có mức độ tiếp cận thị trường thấp và 1 xã có mức độ
tiếp cận thị trường cao. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng 4 công
HỘI THẢO VỀ PHÁT TRIỂN TÂY BẮC
cụ khác nhau: i) Lập bản đồ chuỗi giá trị với các tác nhân tại địa phương;
ii) Phỏng vấn một số tác nhân chính trong chuỗi giá trị; iii) Thảo luận nhóm
với người nông dân; và iv) Phỏng vấn cá nhân nông dân. Tổng số 165 tác
nhân đã được phỏng vấn, khoảng 39-44 người cho mỗi xã trong 4 xã trên.
Kết quả
Thịt lợn là một nguồn thực phẩm từ động vật quan trọng trong bữa ăn của
người Việt Nam. Cầu thịt lợn tăng lên theo thời gian, phần lớn do sự gia
tăng dân số và thu nhập (Nga và cộng sự, 2015). Cầu về thịt lợn chất lượng
cao hơn tại các trung tâm đô thị, bao gồm lợn “nuôi tự nhiên” (Gautier và
182
cộng sự, 2009; Lapar và Toan, 2010) ngày càng tăng. Tuy nhiên, đến nay
việc chăn nuôi lợn tại những vùng nghiên cứu dường như còn chậm đáp
ứng với các cơ hội này. Kết quả thực địa cho thấy hệ thống kết hợp ngô-
lợn đang được áp dụng rộng rãi bởi nông dân tại 4 xã. Các thuận lợi chính
của hệ thống này so với trang trại lợn sử dụng hoàn toàn thức ăn công
nghiệp bao gồm: (i) kiểm soát tốt hơn chất lượng và sự sẵn có thức ăn mọi
lúc do thức ăn từ ngô có sẵn trong các trang trại; (ii) chi phí thức ăn giảm
do loại bỏ được chi phí vận chuyển và giao dịch; và (iii) có tiềm năng tạo
ra sản phẩm cung ứng cho thị trường ngách với thịt lợn chất lượng cao
và/hoặc đáp ứng cầu thịt lợn “nuôi tự nhiên” không dùng thức ăn công
nghiệp. Những bất lợi cũng được chỉ ra, đó là: (i) nhu cầu lao động cho
trồng ngô cao, (ii) khó khăn trong việc lưu trữ ngô, hầu hết ngô bị nhiễm
aflatoxin, (iii) tỷ lệ thịt mỡ cao hơn trong lợn ăn thức ăn chứa thành phần
chủ yếu là ngô, (iv) chu kỳ chăn nuôi lợn bằng thức ăn từ ngô lâu hơn so
với chăn nuôi bằng các thức ăn công nghiệp. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ
ra những khó khăn đối với các hộ gia đình sản xuất quy mô nhỏ trong các
...