Khả năng bảo vệ gan của các chất tạo phức với sắt trên dòng tế bào HepaRG
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 549.83 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu nghiên cứu trình bày về: Khả năng dùng các chất tạo phức với sắt deferoxamin (DFO) và deferasirox (ICL670) bảo vệ gan chống lại tác hại của rượu được khảo sát trên dòng tế bào HepaRG sau 3 và 20 ngày tương ứng với pha tăng trưởng và biệt hóa của gan người trưởng thành.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khả năng bảo vệ gan của các chất tạo phức với sắt trên dòng tế bào HepaRG Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA TÊ LIÊN TỤC CẠNH CỘT SỐNG SAU PHẪU THUẬT CẮT MỘT PHẦN PHỔI Bùi Công Đoàn*, Nguyễn Thị Thanh**, Nguyễn Hữu Lân*** TÓMTẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của tê liên tục cạnh cột sống trong phẫu thuật cắt một phần phổi, thực hiện tạikhoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2/2014- 5/2014. Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu: Qua 32 trường hợp (nhóm 1) tê liên tục cạnh cột sống để giảm đau so sánh với 33 trường hợp (nhóm 2) dùng thuốc giảm đau toàn thân sau mổ cắt một phần phổi chúng tôi nhận thấy hiệu quả giảm đau nhóm 1 tốt hơn nhóm 2 (điểm VAS khi nghỉ và khi ho thấp hơn so với nhóm chứng). Kỹ thuật dễ thực hiện, tỷ lệ thành công cao (97%), ít tai biến, biến chứng. Kết luận: Tê liên tục cạnh cột sống là phương pháp giảm đau hiệu quả, đơn giản và an toàn cho bệnh nhân sau mổ cắt một phần phổi. Từ khóa: tê liên tục cạnh cột sống, phẫu thuật cắt một phần phổi, giảm đau. ABSTRACT CONTINUOUS PARAVERTEBRAL BLOCKADE FOR PART OF LUNG RESECTION Bui Cong Doan, Nguyen Thi Thanh, Nguyen Huu Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 424 - 429 Objective: To evaluatethe analgesic efficacy of continuous paravertebral blockade for a part of lung resection surgeryat Thoracic surgery department of Pham Ngoc Thach hospital from 2/2014 to 5/2014. Methods: Randomized controlled trial. Results: 32 cases (group 1) used continuous paravertebral blockade compared with 33 cases (group2) used systemic analgesia for a part of lung resection surgery,we obtained: the analgesicefficacy in group 1 is much better than those in group 2(VAS score at the rest and during coughingis lower than the control group). We found that continuous paravertebral blockade technique was a simple method with high successful rate (97%), few complications. Conclusion: Continuous paravertebral blockade is easy, safe and efficient for pain management in patients after a part of lung resection surgery. Keywords: continuous paravertebral blockade, anesthesia, a part of lung resection chế hô hấp, nôn, buồn nôn. Gây tê liên tục ngoài ĐẶT VẤNĐỀ màng cứng đoạn ngực là phương pháp giảm Phẫu thuật (PT) cắt một phần phổi gây sang đau thường sử dụng. Nhưng kỹ thuật khó thực chấn mạnh, hậu quả là bệnh nhân (BN) đau hiện, hay gặp tai biến, biến chứng, nhất là tụt nghiêm trọng sau mổ. Đau gây nhiều rối loạn hô huyết áp. Khắc phục khó khăn này, nhiều tác giả hấp, tuần hoàn, ức chế miễn dịch, tăng đáp ứng đã dùng kỹ thuật gây tê liên tục cạnh cột sống viêm cho người bệnh. Để giảm đau phải sử đoạn ngực để thay thế. Gây tê cạnh cột sống dụng nhiều thuốc, trong đó có nhóm morphin. ngực (TCCSN) được thực hiện đầu trên thế giới Thuốc nhóm morphin có nhiều tác dụng phụ: ức * BV Quân y 4 ** Bộ môn Gây mê- Hồi sức, ĐHYD TP HCM *** BV Phạm Ngọc Thạch, TP HCM Tác giả liên lạc: BsCK2 Bùi Công Đoàn ĐT: 0909927551 Email: buicongddoan@hotmail.com 424 Chuyên Đề Ngoại Khoa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 bởi Hugo Sellheim năm 1905. Một thời gian dài, TCCSN rơi vào quên lãng, nó được nhìn nhận lại khi Eason và Wyatt thực hiện giảm đau sau PT vùng ngực cùng với việc luồn catheter tiêm thuốc tê liên tục vào năm 1979. Từ đó, có nhiều công trình nghiên cứu về kỹ thuật này để giảm đau sau PT. Khác với tê ngoài màng cứng, TCCSN chỉ phong bế vận động, cảm giác, giao cảm tại một bên ít gây tác dụng phụ, nhưng vẫn đạt mục đích giảm đau tương đương, kỹ thuật dễ làm, có tỷ lệ thành công cao hơn. Chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu này nhằm: đánh giá hiệu quả giảm đau, đặc điểm kỹ thuật, độ an toàn của phương pháp tê liên tục cạnh cột sống giảm đau sau PT cắt một phần phổi. Nghiên cứu Y học sức, các phương tiện theo dõi. - Thuốc tê: bupivacain 0,5% (Marcain) của Astra Zeneca, nước muối sinh lý vô trùng, lidocain 1% tê tại chỗ, lidocain 1% pha edrenalin 1/400000 làm liều test. - Bộ kim gây tê Perifix của B-Braun gồm kim Tuohy 17G, catheter 22G, fill lọc khuẩn, bơm tiêm. Chuẩn bị BN - Khám BN trước mổ, đánh giá chung, phân độ nguy cơ PT theo ASA. - BN được giải thích, ký các cam kết cần thiết nếu đồng thuận tham gia nghiên cứu. Các bước thực hiện ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU Quy trình gây mê chung trên 2 nhóm BN Thiết kế nghiên cứu Ghi nhận M, HA khi BN vào phòng mổ, đặt đường truyền tĩnh mạch, khởi mê với propofol 1% 2 mg/kg, sufentanil 0,3 µg/kg, rocuronium 0,6 mg/kg, đặt nội phế quản. Duy trì mê với sevoflurane, sufentanil, rocuronium, cuối mổ BN được truyền TM 1g paracetamol. Ống nội phế quản được rút khi BN tỉnh mê. Sau mổ theo dõi BN trên monitor. Đánh giá điểm đau bằng thang điểm chia độ đau VAS vào các thời điểm: 1, 2, 4, 8, 16, 24 giờ sau mổ. Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu 65 BN có chỉ định PT cắt một phần ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khả năng bảo vệ gan của các chất tạo phức với sắt trên dòng tế bào HepaRG Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA TÊ LIÊN TỤC CẠNH CỘT SỐNG SAU PHẪU THUẬT CẮT MỘT PHẦN PHỔI Bùi Công Đoàn*, Nguyễn Thị Thanh**, Nguyễn Hữu Lân*** TÓMTẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả giảm đau của tê liên tục cạnh cột sống trong phẫu thuật cắt một phần phổi, thực hiện tạikhoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ 2/2014- 5/2014. Phương pháp nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu: Qua 32 trường hợp (nhóm 1) tê liên tục cạnh cột sống để giảm đau so sánh với 33 trường hợp (nhóm 2) dùng thuốc giảm đau toàn thân sau mổ cắt một phần phổi chúng tôi nhận thấy hiệu quả giảm đau nhóm 1 tốt hơn nhóm 2 (điểm VAS khi nghỉ và khi ho thấp hơn so với nhóm chứng). Kỹ thuật dễ thực hiện, tỷ lệ thành công cao (97%), ít tai biến, biến chứng. Kết luận: Tê liên tục cạnh cột sống là phương pháp giảm đau hiệu quả, đơn giản và an toàn cho bệnh nhân sau mổ cắt một phần phổi. Từ khóa: tê liên tục cạnh cột sống, phẫu thuật cắt một phần phổi, giảm đau. ABSTRACT CONTINUOUS PARAVERTEBRAL BLOCKADE FOR PART OF LUNG RESECTION Bui Cong Doan, Nguyen Thi Thanh, Nguyen Huu Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 424 - 429 Objective: To evaluatethe analgesic efficacy of continuous paravertebral blockade for a part of lung resection surgeryat Thoracic surgery department of Pham Ngoc Thach hospital from 2/2014 to 5/2014. Methods: Randomized controlled trial. Results: 32 cases (group 1) used continuous paravertebral blockade compared with 33 cases (group2) used systemic analgesia for a part of lung resection surgery,we obtained: the analgesicefficacy in group 1 is much better than those in group 2(VAS score at the rest and during coughingis lower than the control group). We found that continuous paravertebral blockade technique was a simple method with high successful rate (97%), few complications. Conclusion: Continuous paravertebral blockade is easy, safe and efficient for pain management in patients after a part of lung resection surgery. Keywords: continuous paravertebral blockade, anesthesia, a part of lung resection chế hô hấp, nôn, buồn nôn. Gây tê liên tục ngoài ĐẶT VẤNĐỀ màng cứng đoạn ngực là phương pháp giảm Phẫu thuật (PT) cắt một phần phổi gây sang đau thường sử dụng. Nhưng kỹ thuật khó thực chấn mạnh, hậu quả là bệnh nhân (BN) đau hiện, hay gặp tai biến, biến chứng, nhất là tụt nghiêm trọng sau mổ. Đau gây nhiều rối loạn hô huyết áp. Khắc phục khó khăn này, nhiều tác giả hấp, tuần hoàn, ức chế miễn dịch, tăng đáp ứng đã dùng kỹ thuật gây tê liên tục cạnh cột sống viêm cho người bệnh. Để giảm đau phải sử đoạn ngực để thay thế. Gây tê cạnh cột sống dụng nhiều thuốc, trong đó có nhóm morphin. ngực (TCCSN) được thực hiện đầu trên thế giới Thuốc nhóm morphin có nhiều tác dụng phụ: ức * BV Quân y 4 ** Bộ môn Gây mê- Hồi sức, ĐHYD TP HCM *** BV Phạm Ngọc Thạch, TP HCM Tác giả liên lạc: BsCK2 Bùi Công Đoàn ĐT: 0909927551 Email: buicongddoan@hotmail.com 424 Chuyên Đề Ngoại Khoa Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 bởi Hugo Sellheim năm 1905. Một thời gian dài, TCCSN rơi vào quên lãng, nó được nhìn nhận lại khi Eason và Wyatt thực hiện giảm đau sau PT vùng ngực cùng với việc luồn catheter tiêm thuốc tê liên tục vào năm 1979. Từ đó, có nhiều công trình nghiên cứu về kỹ thuật này để giảm đau sau PT. Khác với tê ngoài màng cứng, TCCSN chỉ phong bế vận động, cảm giác, giao cảm tại một bên ít gây tác dụng phụ, nhưng vẫn đạt mục đích giảm đau tương đương, kỹ thuật dễ làm, có tỷ lệ thành công cao hơn. Chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu này nhằm: đánh giá hiệu quả giảm đau, đặc điểm kỹ thuật, độ an toàn của phương pháp tê liên tục cạnh cột sống giảm đau sau PT cắt một phần phổi. Nghiên cứu Y học sức, các phương tiện theo dõi. - Thuốc tê: bupivacain 0,5% (Marcain) của Astra Zeneca, nước muối sinh lý vô trùng, lidocain 1% tê tại chỗ, lidocain 1% pha edrenalin 1/400000 làm liều test. - Bộ kim gây tê Perifix của B-Braun gồm kim Tuohy 17G, catheter 22G, fill lọc khuẩn, bơm tiêm. Chuẩn bị BN - Khám BN trước mổ, đánh giá chung, phân độ nguy cơ PT theo ASA. - BN được giải thích, ký các cam kết cần thiết nếu đồng thuận tham gia nghiên cứu. Các bước thực hiện ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU Quy trình gây mê chung trên 2 nhóm BN Thiết kế nghiên cứu Ghi nhận M, HA khi BN vào phòng mổ, đặt đường truyền tĩnh mạch, khởi mê với propofol 1% 2 mg/kg, sufentanil 0,3 µg/kg, rocuronium 0,6 mg/kg, đặt nội phế quản. Duy trì mê với sevoflurane, sufentanil, rocuronium, cuối mổ BN được truyền TM 1g paracetamol. Ống nội phế quản được rút khi BN tỉnh mê. Sau mổ theo dõi BN trên monitor. Đánh giá điểm đau bằng thang điểm chia độ đau VAS vào các thời điểm: 1, 2, 4, 8, 16, 24 giờ sau mổ. Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu 65 BN có chỉ định PT cắt một phần ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Biệt hóa tế bào Chất tạo phức với sắt Chuyển hóa sắt Bệnh gan do rượu Tăng trưởng tế bào Tế bào ganGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 299 0 0 -
5 trang 289 0 0
-
8 trang 245 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 239 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 221 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 207 0 0 -
8 trang 187 0 0
-
13 trang 186 0 0
-
5 trang 186 0 0
-
12 trang 178 0 0