Danh mục

KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG CỦA MẠCH MÁU NÃO VÀ NHỒI MÁU DƯỚI VỎ

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 412.34 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 17,000 VND Tải xuống file đầy đủ (19 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tìm hiểu sự liên kết giữa các nhóm khác nhau của nhồi máu não và khả năng phản ứng của mạch máu não (cerebrovascular reactivity) nhằm đánh giá mối quan hệ của chúng với các yếu tố nguy cơ chính dẫn tới đột quỵ Đối tượng và phương pháp: Chúng tôi đánh giá khả năng phản ứng của mạch máu não bằng cách sử dụng chỉ số "breath-holding" của máy siêu âm Doppler xuyên sọ theo dõi liên tục tốc độ dòng động mạch não giữa cả hai bên của 41 bệnh nhân có mặt thường xuyên trong dưỡng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG CỦA MẠCH MÁU NÃO VÀ NHỒI MÁU DƯỚI VỎ KHẢ NĂNG PHẢN ỨNG CỦA MẠCH MÁU NÃO VÀ NHỒI MÁU DƯỚI VỎMục đích: Tìm hiểu sự liên kết giữa các nhóm khác nhau của nhồi máu não vàkhả năng phản ứng của mạch máu não (cerebrovascular reactivity) nhằm đánhgiá mối quan hệ của chúng với các yếu tố nguy cơ chính dẫn tới đột quỵĐối tượng và phương pháp: Chúng tôi đánh giá khả năng phản ứng của mạchmáu não bằng cách sử dụng chỉ số breath-holding của máy siêu âm Dopplerxuyên sọ theo dõi liên tục tốc độ dòng động mạch não giữa cả hai bên của 41 bệnhnhân có mặt thường xuyên trong dưỡng đường của chúng tôi cho đến bây giờ,những bệnh nhân này đột quỵ thiếu máu xuất hiện lần đầu tiên và 15 bệnh nhânđược lựa chọn. Sự xác định chủ yếu của th ương tổn bởi máy chụp cắt lớp điệntoán, nhận biết 3 loại thương tổn nhồi máu sau: nhồi máu thuộc vỏ, nhồi máu dướivỏ đơn thuần, nhồi máu dưới vỏ yên lặng đa ổ. Bệnh nhân bị hẹp hoặc tắc độngmạch cảnh nặng nề mà dẫn tới làm biến đổi khả năng phản ứng của mạch máunão được loại khỏi nghiên cứu này. Tất cả tình trạng gây nên do bệnh hoặc sinh lýbệnh làm suy yếu khả năng phản ứng của mạch máu não đều được ghi nhận.Kết quả:Chỉ số breath-holding có ý nghĩa thấp hơn ở nhóm nhồi máu d ưới vỏrải rác so với bệnh nhân được lựa chọn (P(0,001), nhóm nhồi máu dưới vỏ đơnđộc (P(0,01) và nhóm nhồi máu dưới vỏ (P(0,01). Trong tất cả các nhóm đàn ông(P(0,05) và bệnh sử cao huyết áp (P(0,05) kể cả cao huyết áp đã được điều trịtương quan với khả năng phản ứng của mạch máu não thấp. Sự phân tích củanhiều phép toán hồi quy chỉ ra rằng tác nhân có ý nghĩa có thể ảnh hưởng tới chỉsố breath-holding là loại của tổn thương.Bàn luận: Những bệnh nhân đột quỵ lần đầu tiên mà không có hẹp mạch máu, lànhững người mới có triệu chứng nhồi máu dưới vỏ cùng với nhồi máu yên lặng đaổ được xem là suy giảm sức chứa mạch máu não. Sự liên kết chặt chẽ của nhồimáu dưới vỏ và nhồi máu yên lặng đa ổ với việc suy giảm khả năng phản ứng củamáu não đã chỉ ra vai trò của bệnh mạch máu nhỏ và sự giảm tưới máu có thể làcơ chế sinh lý bệnh của nhồi máu d ưới vỏ với nhồi máu yên lặng đa ổ. Sự tươngquan giữa việc suy giảm sức chứa của dòng máu và nhồi máu não đã được thôngbáo trước đây ở những bệnh nhân mắc bệnh động mạch cảnh nặng nề. Bệnh nhânvới dung tích bảo lưu mạch máu não hạn chế có sự tưới máu thích hợp thấp hơnso với những bệnh nhân sức chứa của dòng máu bình thường. Sức chứa bảo lưu(dự trữ) của mạch máu não suy giảm có lẽ gia tăng sự rủi ro của nhồi máu n ãotrong những bệnh nhân tắc động mạch não chính. Bệnh nhân với hẹp hoặc tắcđộng mạch cảnh nặng nề thường có ranh giới rõ vùng nhồi máu trong bán cầunão, không liên quan tới bản chất bệnh động mạch cảnh. Vùng ranh giới của nhồimáu não thường giảm tưới máu và nó có ảnh hưởng làm giảm dòng máu tớinhững khu vực chính của bán cầu não. Hơn nữa, khả năng phản ứng của mạchmáu não đã được biết là có ý nghĩa trong giảm những nhồi máu nhỏ so với huyếtkhối tắc mạch ở những bệnh nhân hẹp động mạch cảnh c ùng bên. Người ta đã tìmthấy có sự liên kết giữa khả năng phản ứng của mạch máu n ão với những thươngtổn chất trắng. Sự ủng hộ giả thuyết này phụ thuộc vào các loại thương tổn có lẽliên quan tới huyết động học trong những thương tổn nhồi máu não. Thêm vào đó,bệnh nhân tắc động mạch não lớn và sự tưới máu nghèo nàn có nguy cơ cao độtquỵ thiếu máu tái đi tái lại. Có giả thuyết cho rằng sức chứa bảo l ưu (dự trữ)mạch máu não giảm có liên quan nhiều tới đột quỵ thiếu máu. Theo sự nhận biếtcủa chúng tôi, sự liên quan giữa các loại khác nhau của thương tổn thiếu máu vàkhả năng phản ứng của mạch máu não chưa được nghiên cứu trong những bệnhnhân đã từng bị đột quỵ nhưng không có bệnh động mạch cảnh nghiêm trọng.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu kế thừa và liên tục (prospective and consecutive study) bao gồm tất cảnhững bệnh nhân bị đột quỵ cấp tính, đột quỵ lần đầu tiên và được nhập vào khoathần kinh của chúng tôi từ 1/1/1998 đến 1/10/1999. Bệnh nhân đ ược đăng ký vàonghiên cứu này nếu họ có đầy đủ những tiêu chuẩn sau:1- Triệu chứng lâm sàng có tương quan với thương tổn nhồi máu dưới lều trênchụp cắt lớp điện toán.2- Siêu âm Doppler loại trừ bệnh lý gây hẹp về huyết động học của động mạchcảnh và động mạch đốt sống (đoạn ngoài sọ).3- Siêu âm xuyên sọ khám phá tốc độ dòng máu động mạch não giữa đối xứng vàcửa sổ thái dương phù hợp cho phép thu nhận tốc độ dòng máu hai bên liên tục.Bệnh nhân đã từng bị đột quỵ được loại khỏi nghiên cứu này.Sử dụng dòng màu của siêu âm Doppler kiểu B (model AU5; Harmonic Esaotebiomedica, Esaote S.p.A., Genoa, Italy) với đầu dò linear tần số 7.5MHz để tiếnhành đánh giá động mạch cảnh. Đánh giá mảng thường xảy ra ở giữa lớp nội mạccủa động mạch cảnh trái, động mạch cảnh phải và động mạch cảnh chung. Cácdạng thương tổn thiếu máu được xác định bằng chụp cắt lớp điện toán kiểu xoắnốc (Tomoscan SR 7000; Philips Medical Systems, Amsterdam, the Netherlands).Trong số 152 bệnh nhân lần đầu tiên đột quỵ thiếu máu được quan sát trong suốtthời gian nghiên cứu có 111 bệnh nhân bị loại khỏi nghiên cứu (21 bệnh nhân bịnhồi máu vùng dưới lều, 56 bệnh nhân hiện đang bị tắc về huyết động học củađộng mạch đốt sống và động mạch cảnh đoạn ngoài sọ và 34 bệnh nhân do cửasổ xương vùng thái dương nghèo nàn hoặc có dấu hiệu không đối xứng của tốcđộ dòng máu động mạch não giữa). Như vậy chỉ có 41 bệnh nhân được thu nhậntrong nghiên cứu này. Trong đó 32 bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ não bộ(Gyroscan ACS-NT, 1.5T; Philips Medical Systems). 21 bệnh nhân trong nhómnghiên cứu cũng được chụp cộng hưởng từ mạch máu. Việc khảo sát siêu âmxuyên sọ cơ sở và chụp cộng hưởng từ mạch máu không cho phép khám pháthương tổn hẹp tắc trong sọ đối với những bệnh nhân được thu nhận nghiên cứu.Dựa vào vị trí của thương tổn phân ra 3 dạng nhồi máu:* Loại I: ...

Tài liệu được xem nhiều: