Danh mục

Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 4)

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 115.78 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

4. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay[*] Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trước nhân dân Việt Nam và toàn thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn độc lập. Đó là một văn kiện lịch sử đối với lịch sử của dân tộc Việt Nam, đối với cả lịch sử của tiếng Việt. Những lời văn sáng sủa, hùng tráng của bản đại cáo ấy chính thức tuyên bố quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, đồng thời chính thức xác định vị...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 4) Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 4)4. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay[*]Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trước nhân dân ViệtNam và toàn thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn độc lập. Đólà một văn kiện lịch sử đối với lịch sử của dân tộc Việt Nam, đối với cả lịch sử củatiếng Việt. Những lời văn sáng sủa, hùng tráng của bản đại cáo ấy chính thức tuyênbố quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, đồng thời chính thứcxác định vị trí của tiếng Việt đối với nước Việt Nam đã tự mình làm chủ vận mệnhcủa mình.Từ đó, tiếng Việt đảm nhiệm một vai trò mới.Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngay từ khi thành lập, đã quyết định dùngtiếng Việt ở mọi cấp học, bậc học, ở mọi ngành hoạt động. Trong vai trò này, tiếngViệt tỏ ra dồi dào khả năng. Một trong những ý nghĩa của các thành tựu văn hoá,khoa học, giáo dục, hơn ba mươi lăm năm qua của nước Việt Nam, là minh chứngrõ ràng cho những khả năng đó của tiếng Việt.Trong nghệ thuật, giá trị của tiếng Việt được tiếp tục phát huy. Một đặc điểm củanền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hiện nay là chất liệu ngôn ngữ lấy từ cuộcsống của nhân dân. Đó là một chất liệu rất phong phú vốn được xây dựng nên từcác nguồn văn học truyền miệng và văn học viết cổ điển; qua sự nảy nở những tưtưởng và tình cảm cách mạng của nhân dân trong cuộc sống chiến đấu và lao động,chất liệu đó lại càng phong phú hơn.Cũng từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, vai trò ngôn ngữ chung của tiếngViệt đối với các thành phần dân tộc anh em lại càng được đề cao. Mỗi thành phầndân tộc có ngôn ngữ riêng với vai trò quan trọng của nó ở mặt sinh hoạt vật chất vàtinh thần của nhân dân thuộc thành phần dân tộc đó. Chính sách của Đảng vàChính phủ là tôn trọng quyền của mỗi thành phần dân tộc trong việc sử dụng ngônngữ riêng của mình, vào tạo điều kiện thuận lợi cho ngôn ngữ của tất cả các thànhphần đều phát triển. Song, tiếng Việt là ngôn ngữ chung, dùng trong địa hạt giaolưu giữa các thành phần dân tộc, và đặc biệt, trong sự xây dựng và phát triển nềnvăn hoá và khoa học-kĩ thuật chung của khối cộng đồng dân tộc Việt Nam xã hộichủ nghĩa. Sự có mặt ngày một nhiều của những tác gia thuộc các thành phần dântộc khác nhau trên văn đàn nghệ thuật và khoa học của tiếng Việt đang biểu hiệnmột cách sâu sắc cho vai trò ngôn ngữ chung của tiếng Việt, và đồng thời cho khốiđoàn kết vững chắc của toàn thể dân tộc Việt Nam.Ngày nay, trong nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tiếng Việt có vị tríđầy vinh dự và vai trò ngày càng quan trọng. Đó là công cụ đấu tranh của hơn nămmươi triệu người Việt Nam đang tiến hành đồng thời cách mạng về quan hệ sảnxuất, cách mạng tư tưởng và văn hoá, cách mạng khoa học-kĩ thuật, đang xây dựngchủ nghĩa xã hội trên cả nước.Vị trí và vai trò ấy đặt ra yêu cầu chuẩn hoá nó về mặt chữ viết, từ vựng, ngữ pháp,và ngữ âm. Chuẩn hoá tiếng Việt là xác định tính chất đúng đắn và thống nhất củacác quy tắc trong ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tức là giữ gìn cáibản sắc đẹp đẽ, cái bản lĩnh độc đáo của tiếng Việt, đồng thời xác nhận những hiệntượng mới nảy sinh trong quá trình phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt, nhằm mụcđích nâng cao hiệu lực của nó đối với tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy nghệthuật, tư duy khoa học của người Việt Nam trong giai đoạn mới của sự nghiệpcách mạng, như đồng chí Phạm Văn Đồng – Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng – đãphát biểu(1).

Tài liệu được xem nhiều: