Danh mục

Khái quát về sự hình thành và phát triển của tiếng Việt

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 155.21 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Căn cứ vào những tài liệu mới được công bố gần đây, hiện nay có thể kết luận: Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường, tiểu chi Việt Chứt, nằm trong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía đông của ngành Mon-Khmer, họ Nam Á. Trong nhóm Việt-Mường, ngoài tiếng Việt và tiếng Mường (Mường Sơn La, Mường Thanh Hoá, Mường Nghệ An) còn có tiếng Nguồn cũng được coi là ngôn ngữ bà con gần nhất với tiếng Việt. Trong tiểu chi Việt Chứt, ngoài nhóm Việt-Mường còn có nhóm Pọng Chứt gồm các ngôn ngữ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái quát về sự hình thành và phát triển của tiếng Việt Khái quát về sự hình thành và phát triển của tiếng ViệtCăn cứ vào những tài liệu mới được công bố gần đây, hiện nay có thể kết luận:Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường, tiểu chi Việt Chứt, nằmtrong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía đông của ngành Mon-Khmer, họ Nam Á.Trong nhóm Việt-Mường, ngoài tiếng Việt và tiếng Mường (Mường Sơn La,Mường Thanh Hoá, Mường Nghệ An) còn có tiếng Nguồn cũng được coi là ngônngữ bà con gần nhất với tiếng Việt.Trong tiểu chi Việt Chứt, ngoài nhóm Việt-Mường còn có nhóm Pọng Chứt gồmcác ngôn ngữ Chứt, Pọng (bao gồm Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, Arem) ở vùng núicác tỉnh phía nam khu IV và các tiếng như Ahơ (Phon Soung), Maleng (Pakadan),Thà Vựng ở Lào. Đây là những bà con xa hơn của tiếng Việt.Proto Việt Chứt, tức cái ngôn ngữ mẹ, chung cho cả nhóm Việt-Mường và PọngChứt, không tách trực tiếp từ proto Mon-Khmer mà tách ra từ khối proto ViệtKatu. Thời gian chia tách này xảy ra cách đây trên 4000 năm, địa bàn cư trú banđầu của cư dân nói tiếng proto Việt Chứt là vùng kéo dài từ khu vực miền núi HàTĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị sang đến Trung Lào. Từ đó, một bộ phận cư dân đãvượt Trường Sơn, tràn ra miền Bắc, cư trú ở các vùng cao Nghệ–Tĩnh, Thanh Hoá,Hoà Bình, Sơn La, Vĩnh Phú(1). Nếu bộ phận cư dân proto Việt Chứt ở lại quêhương cũ, vẫn giữ nguyên quan hệ tiếp xúc với cư dân Katu, Bana, Khmer thì bộphận cư dân proto Việt Chứt di cư ra Bắc lại có những quan hệ tiếp xúc mới vớinhững cư dân nói ngôn ngữ thuộc họ Thái-Kađai (như tổ tiên của người Tày, ngườiNùng,...). Sự tiếp xúc với Thái-Kađai rất sâu đậm, tạo ra một sự hoà nhập về nhiềumặt trong huyết thống, trong văn hoá vật chất cũng như tinh thần. Sự diễn biếnmạnh mẽ của tiếng Việt, tiếng Mường theo hướng từ bỏ nhiều nét Mon-Khmer vốncó trong nguồn gốc của mình để chuyển thành những ngôn ngữ hoàn toàn âm tiếttính như ngày nay cũng bắt nguồn từ sự tiếp xúc với loại hình họ Thái-Kađai. Tiếptheo đó, một bộ phận cư dân Việt-Mường phía Bắc đã rời bỏ đồi núi, toả về đồngbằng, sinh sôi, phát triển mạnh ở vùng châu thổ sông Hồng. Đó là tiền đề cho việchình thành cái nối của vùng Kinh sau này(2).Sự tiếp xúc với người Hán, tiếng Hán, văn hoá Hán đã xảy ra trước khi người Hánxâm lược, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm vẫn là sự tiếp xúc trực tiếp trong suốt 1000năm Bắc thuộc. Ảnh hưởng của tiếng Hán, nền văn hoá Hán không toả ra đồng đềutrên lãnh thổ bị chiếm đóng. Ảnh hưởng đó ở vùng phía bắc sâu đậm hơn ở vùngphía nam, ở vùng đồng bằng sâu đậm hơn ở vùng núi. Chính vì vậy, sự khác biệtvốn đã có giữa nhóm Pọng Chứt và nhóm Việt Mường ngày càng rõ nét và cuốicùng đã phân hoá thành hai nhóm ngôn ngữ các đây từ 2000 đến 2500 năm. Trongnội bộ nhóm Việt-Mường về sau lại phân hoá thành tiếng Việt(3) ở miền châu thổsông Hồng và tiếng Mường ở miền thượng du Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ. Sựphân hoá này diễn ra cách đây từ 1000 đến 1500 năm.Từ năm 939, Việt Nam giành được độc lập tự chủ. Mối quan hệ với tiếng Hánkhông còn là quan hệ trực tiếp như trước nữa. Mặc dù nhà nước phong biến ViệtNam vẫn duy trì việc sử dụng chữ Hán, coi chữ Hán là văn tự chính thức, việc tổchức học hành, thi cử bằng chữ Hán ngày càng có quy mô, nhưng tiếng Hán khôngcòn là sinh ngữ như trước nữa. Từ đây tiếng Việt diễn biến theo quy luật nội tại, nócòn bắt cả kho từ ngữ gốc Hán diễn biến theo quy luật của mình.Khi nước nhà giành được độc lập, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lạitiếng nói. Đây là một loại chữ được tạo ra theo nguyên tắc và trên cơ sở của tiếngHán. Bên cạnh nền văn hiến dân tộc viết bằng chữ Hán, theo truyền thống Hán,còn có một nền văn hiến dân tộc viết bằng chữ Nôm ngày càng phát triển.Cũng từ đó, vai trò của tiếng Việt ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù nó khôngđược coi là ngôn ngữ chính thức dùng ở công văn, giấy tờ, học hành, thi cử, nhưngtrong thực tế, nó vẫn trở thành ngôn ngữ có uy thế nhất trong toàn bộ lãnh thổ. Tácdụng của tiếng Việt bắt đầu toả ra mạnh mẽ đối với các vùng ngôn ngữ thiểu số.Lúc đầu chỉ là ở phía bắc, về sau, với đà nam tiến ồ ạt, liên tục của người Việt, ảnhhưởng đó ngày càng lan rộng. Bước đầu, nó lan truyền đến địa bàn khu IV, hìnhthành phương ngữ khu IV. Sau đó tiếng Việt lại nam tiến, tạo điều kiện hình thànhmột phương ngữ mới là tiếng miền Nam. Hai phương ngữ mới này có hoàn cảnhhình thành khác nhau, do đó có những đặc trưng khác nhau.Sự hình thành chữ quốc ngữ gắn liền với sự truyền giáo của các giáo sĩ phươngTây. Chữ quốc ngữ là một thứ chữ được xây dựng theo nguyên tắc ghi âm bằngchữ Latin. Loại chữ này được dùng phổ biến từ rất lâu ở châu Âu. Đến thế kỉ XVII,một số giáo sĩ phương Tây đem nguyên tắc ấy dùng vào việc ghi âm tiếng Việt, tạora một thứ chữ thuận lợi hơn đối với mục đích truyền đạo. Mấy thế kỉ tiếp theo,chữ quốc ngữ chỉ được dùng hạn chế trong những kinh bổn đạo Thiên Chúa.Sự áp đặt chế độ thuộc địa Pháp đưa đến việc bãi bỏ việc học, việc thi cử, việcdùng chữ Hán; đưa đến sự thắng lợi của chữ quốc ngữ. Buổi đầu nhân dân lạnhnhạt với chữ quốc ngữ, mặc dù một số trí trức Tây học đã ra sức cổ động chonó(4). Thái độ lạnh nhạt ấy thay đổi từ khi hình thành các phong trào đấu tranh vănhoá có ý nghĩa chính trị như phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở đầu thế kỉ XX.Những người lãnh đạo phong trào đưa việc dùng chữ quốc ngữ lên hàng đầu trongsáu biện pháp của bản sách lược gọi là Văn minh tân học sách (1907) và lên tiếngkêu gọi đồng bào vì tương lai của đất nước mà nên dùng thứ chữ tiện lợi ấy.Những tài liệu văn hoá bằng chữ quốc ngữ do phong trào này phát hành đã đượcphổ biến khá rộng. Mặt khác, sự tiếp xúc với tiếng Pháp, với nền văn hoá Pháp đãdẫn đến sự hình thành nền báo chí Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, nền văn xuôi ViệtNam hiện đại, sự đổi mới trong thơ ca, những tiếp thu về từ vựng, ngữ pháp.Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công ...

Tài liệu được xem nhiều: