Danh mục

Khái quát về sự hình thành và phát triển của Việt ngữ học (Phần 4)

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 140.72 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Về phạm vi nghiên cứu, Việt ngữ học thời hiện đại cũng phong phú, đa dạng hơn hẳn thời cận đại. Thời cận đại (thuộc Pháp) đã có những công trình nghiên cứu về ngữ pháp, chữ viết, phương ngữ, ngữ pháp, nguồn gốc tiếng Việt,... nhưng nhìn chung còn lẻ tẻ, chủ yếu do người Pháp tiến hành nhằm mục đích dạy và học tiếng Việt cho bản thân họ. Khi nước ta giành được độc lập, Việt ngữ học bước vào thời hiện đại và đã phát triển vượt bậc, số lượng công trình tăng gấp bội. Những...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái quát về sự hình thành và phát triển của Việt ngữ học (Phần 4) Khái quát về sự hình thành và phát triển của Việt ngữ học (Phần 4) Về phạm vi nghiên cứu, Việt ngữ học thời hiện đại cũng phong phú, đa dạng hơn hẳn thời cận đại. Thời cận đại (thuộc Pháp) đã có những công trình nghiên cứu về ngữ pháp, chữ viết, phương ngữ, ngữ pháp, nguồn gốc tiếng Việt,... nhưng nhìn chung còn lẻ tẻ, chủ yếu do người Pháp tiến hành nhằm mục đích dạy và học tiếng Việt cho bản thân họ. Khi nước ta giành được độc lập, Việt ngữ học bước vào thời hiện đại và đã phát triển vượt bậc, số lượng công trình tăng gấp bội. Những vấn đề giai đoạn trước đã được đặt ra giai đoạn này đi sâu, mở rộng hơn. Chẳng hạn, về ngữ âm, không chỉ quan sát, miêu tả như giai đoạn trước mà còn áp dụng ngôn ngữ học thực nghiệm vào miêu tả chính xác ngữ âm tiếng Việt; về mặt chữ viết, không chỉ tập trung vào việc cải tiến nó mà còn đi sâu vào nghiên cứu chữ Nôm; về phương ngôn, không chỉ miêu tả tiếng nói của làng này, làng kia, mà còn tiến hành phân vùng tiếng nói của cả nước; về lịch sử, không chỉ nghiên cứu lịch sử ngữ âm mà còn nghiên cứu lịch sử từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt... Điều quan trọng là thời hiện đại đã mở ra nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới. Trước hết là vấn đề xây dựng hệ thống thuật ngữ khoa học cho tiếng Việt. Một khi tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ chính thức của cả nước, được sử dụng để giảng dạy ở cả bậc phổ thông và đại học thì nhu cầu cấp thiết đặt ra là phải nghiên cứu cách thức xây dựng các hệ thống thuật ngữ khoa học. Về việc này, công đầu phải dành cho giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Cuốn Danh từ khoa học (phần Toán, Lí, Cơ) được in lần đầu tại Sài Gòn năm 1848, lần thứ hai ở Sài Gòn, năm 1957 và lần thứ ba ở Paris, năm 1967. Tiếp sau ông, các nhà khoa học Việt Nam đã xây dựng các hệ thống thuật ngữ cho tất cả các ngành khoa học, trong đó có cả ngành Việt ngữ học. Sự phong phú của hệ thống thuật ngữ Việt ngữ học là thước đo sự phát triển của ngành khoa học mà chúng ta đang xem xét. Do ảnh hưởng của truyền thống ngôn ngữ học châu Âu, việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt thời thuộc Pháp chủ yếu tập trung vào phần từ pháp. Bước sang thời hiện đại, trọng tâm nghiên cứu đã chuyển dần sang cú pháp. Nếu như trước đây người ta chỉ quan tâm nghiên cứu nghĩa của từ thì ngày nay đã chú ý nhiều đến nghĩa của câu. Những vấn đề cú pháp ngữ nghĩa đã được đặt ra như: cấu trúc đề– thuyết, cấu trúc vị từ–tham tố, ngữ trị, diễn tố; các vai nghĩa như: người hành động, người tác động, người thể nghiệm, người nhận, người hưởng lợi,... đã được nghiên cứu. Phong cách học là một mảng nghiên cứu mới trong thời hiện đại. Từ chỗ khảo sát các thủ pháp tu từ (mĩ từ pháp) đến nghiên cứu các phong cách chức năng của tiếng Việt; từ nghiên cứu các phong cách chức năng mở rộng ra vấn đề của ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ, phong cách tác giả, phong cách học văn bản,... là một bước tiến dài. Trong khoảng mười năm gần đây, một ngành nghiên cứu mới là ngữ dụng học cũng đã được vận dụng vào thực tế tiếng Việt. Ngữ dụng học là một môn khoa học nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là cách sử dụng ngôn ngữ trong ngữ cảnh cụ thể để đạt được những mục tiêu cụ thể. Tuy mới xuất hiện, nhưng nó lại thu hút được sự chú ý của nhiều người nên mấy năm gần đây đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Liên quan đến ngữ dụng học là các ngành ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học tâm lí, ngôn ngữ–văn hoá học. Mặt khác, các nhà Việt ngữ học đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tiếng Việt với dân tộc, với giai cấp, với quốc gia, với giới tính,...; đã nghiên cứu chính sách ngôn ngữ tức là đã có sự tác động chủ quan của con người vào sự phát triển của ngôn ngữ, đặc biệt là vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Về văn hoá–ngôn ngữ học, các nhà Việt ngữ học đã khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, sự phản ánh đặc trưng văn hoá dân tộc trong ngôn ngữ,...; về tâm lí–ngôn ngữ học, Việt ngữ học đã quan tâm đến bản chất tâm lí của quá trình thụ đắc ngôn ngữ, đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em Việt Nam,... Mảng ngôn ngữ học ứng dụng cũng được một số học giả quan tâm, trong đó nổi lên hai hướng chính là: thống kê ngôn ngữ học và phương pháp dạy tiếng. Trong các chương sau, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích kĩ thành tựu nghiên cứu ở từng giai đoạn, từng lĩnh vực, từng học giả cụ thể. Trước Cách mạng Tháng Tám, người nước ngoài nghiên cứu tiếng Việt chủ yếu là người Pháp. Họ nghiên cứu tiếng Việt phục vụ cho việc học tiếng của họ ở Việt Nam, đồng thời cũng là để góp phần xây dựng và củng cố sự thống trị của họ. Sau Cách mang, do vị thế của Việt Nam và tiếng Việt trên trường quốc tế, nhiều nước, nhiều dân tộc có nhu cầu học tập, nghiên cứu tiếng Việt. Thực tế, đã có các trung tâm nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt ở các nước như Pháp, Nga, Trung Quốc, Úc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc,... Trong giai đoạn hiện đại của Việt ngữ học, ngoài thành t ...

Tài liệu được xem nhiều: