Khám bụng ngoại khoa và bệnh án ngoại khoa – Phần 1
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 188.83 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu: Nắm vững các nội dung của một bệnh án ngoại khoaBiết cách khai thác và phát hiện các triệu chứng lâm sàng (bao gồm các dấu hiệu cơ năng, toàn thân và thực thể)Trình bày được giá trị của một số thăm dò cận lấm sàng cơ bảnTrình bày được tóm tắt bệnh án: triệu chứng chính, các triệu chứng và các hội chứng.Nắm vững cách thăm khám bụngXác định được các dấu hiệu bệnh lý về tình trạng thành bụng, ổ bụngNắm được các triệu chứng của một số bệnh lý cấp cứu bụng thường gặp....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khám bụng ngoại khoa và bệnh án ngoại khoa – Phần 1 Khám bụng ngoại khoa và bệnh án ngoại khoa – Phần 1Mục tiêu:Nắm vững các nội dung của một bệnh án ngoại khoaBiết cách khai thác v à pháthiện các triệu chứng lâm sàng (bao gồm các dấu hiệu cơ năng, toàn thân và thựcthể)Trình bày được giá trị của một số thăm dò cận lấm sàng cơ bảnTrình bày đượctóm tắt bệnh án: triệu chứng chính, các triệu chứng và các hội chứng.Nắm vữngcách thăm khám bụngXác định được các dấu hiệu bệnh lý về tình trạng thànhbụng, ổ bụngNắm được các triệu chứng của một số bệnh lý cấp cứu bụng thườnggặp.Hỏi bệnh:Trước khi hỏi bệnh, ta bắt buộc phải có những lời chào hỏi xã giao để làm quenvới bệnh nhân, tạo sự tin tưởng của người bệnh với mình đồng thời cũng để tìmhiểu trình độ dân trí và văn hoá của người bệnh để đề ra những câu hỏ i khai thácbệnh sử một cách thích hợp. Ngoài ra, những câu hỏi xã giao cũng để tìm hiểuthêm về hoàn cảnh gia đình, xã hội bệnh nhân. Đối với người văn hoá cao, cần cónhững câu hỏi tế nhị nhưng đối với những người văn hoá thấp thì lại chọn nhữngcâu hỏi đơn giản, cụ thể. Hiện nay, hầu như các bác sỹ và sinh viên đều bỏ quamục này và thường có một thái độ ban ơn, trịch thượng đối với người bệnh.Những biểu hiện này đang làm mất dần đi tính nhân văn, những thể hiện văn hoátối thiểu của một con người.Trong hỏi bệnh và trong khám bệnh, người làm bệnh án phải ghi vào những dấuhiệu dương tính (những dấu hiệu người bệnh có) và cả những dấu hiệu âm tính(là những dấu hiệu người bệnh không có) vì nhiững dấu hiệu âm tính có tác dụngrất lớn trong chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán xác định. Ví dụ, đau quặn vùngmạng sườn có đái ra máu sẽ khác hẳn đau mạng sườn không đái ra máu, hoặc đauvùng dưới sườn phải có sốt nóng và rét sẽ rất khác đau dưới sườn phải không cósốt.Lý do vào viện.Lý do vào viện là lý do khiến người bệnh đi đến tiếp xúc với cơ sở y tế đầu tiênchứ không phải là lý do hành chính như chuyển viện hay hẹn vào mổ. Lý do vàoviện chính là dấu hiệu chủ đạo để khai thác trong quá trình hỏi bệnh. Ví dụ nhưbệnh nhân vào viện vì đau bụng. Khi bệnh nhân vào viện vì đau bụng thì việc khaithác dấu hiệu xung quanh đau bụng là quan trọng nhất. Đó sẽ là phần chính trongkhai thác bệnh sử. Nếu người bệnh đi đến cơ quan y tế đầu tiên là nôn ra máu thìviệc khai thác các đấu hiệu liên quan đến nôn ra máu sẽ là những phần chính càankhai thác trong bệnh sử.Bệnh sử:Bệnh sử là khai thác các thông tin xung quanh lý do vào viện. Đầu tiên ta phải hỏiđến cơ hội xuất hiện lý do này rồi vị trí xuất hiện của lý do vào viện đối vớinhững trường hợp đau vì thông thường mỗi một cơ quan nội tạng đều có một sựtương ứng ở bên ngoài. Ta bắt đầu hỏi đến thời gian xuất hiện của lý do vào việnvì chúng ta biết rằng sự tiến triển của bệnh thường tương quan với thời gian. Đó làđiều quan trọng trong sơ bộ nhìn nhận bệnh nhân có ở trong tình trạng cấp cứu haykhông. Nếu như lý do vào viện của bệnh nhân đã có từ lâu thì rất ít khi là mộtbệnh cấp cứu ngoại khoa và nếu như có cấp cứu ngoại khoa thì đây là điều tệ hại,có thể do tuyến y tế nhưng cũng có thể do người bệnh dân trí thấp hoặc không cókhả năng kinh tế đi khám bệnh và để đến khi không chịu đựng nổi họ mới đi khámbệnh. Tiếp theo thời gian xuất hiệu dấu hiệu đầu tiên ta cần hỏi đến cường độ củadấu hiệu này. Cường độ dữ dội hay vừa phải chỉ cảm thấy khó chịu. Cùng với hỏicường độ, ta cần hỏi tiếp đến đặc tính của dấu hiệu này: có cơn hay không, có liêntục hay không, có lan đi theo hướng nào. Sau khi đã hỏi đủ và kỹ các dấu hiệunày, ta mới hỏi đến các dấu hiệu khác xuất hiện kèm theo dấu hiệu này. Lấy mộtví dụ khi bệnh nhân bị đau bụng vì phần lớn bệnh nhân đến khám cấp cứu là vìđau bụng. Để khai thác dấu hiệu n ày:- Cơ hội xuất hiện của dấu hiệu đau. Có thểlà tự nhiên, nhưng cũng có thể sau khi ăn cỗ và uống rượu (viêm tu ỵ) sau khi laođộng nặng (sỏi tiết niệu), hoặc thay đổi thời tiết (loét dạ dày-tá tràng). - Đau từbao giờ, đau ở vùng nào của bụng. Nếu là vùng trên rốn thường ta hay nghĩ đến dạdày-tá tràng, nếu đau vùng dưới sườn phải, ta nghĩ đến gan mật, nếu đau hố chậuphải ta nghĩ đến ruột thừa, nếu đau vùng bụng dưới ta nghĩ đến phần phụ hoặcbàng quang. Sự suy nghĩ này xuất phát từ vị trí giải phẫu và hệ số tương quan giữavị trí bên ngoài với bệnh lý các tạng bên trong. Tuy nhiên nếu chúng ta lại địnhkiến vào quan điểm này thì có thể dẫn đến sai lầm trong chẩn đoán. Ví dụ như trẻem, khi bị viêm ruột thừa lại thường bắt đầu đau ở vùng trên rốn, hoặc không ítcác trường hợp đau hố chậu phải lại thuộc về bệnh lý phần phụ hay đại tr àng. -Cường độ đau cũng tuỳ thuộc vào từng loại bệnh. Ví dụ như thủng dạ dày thườngxuất hiện đột ngột, cơn đau dữ dội như bị đâm dao vào bụng khiến bệnh nhân phảigập người lại và vì cơn đau dữ dội nên họ nhớ rất chính xác thời gian xảy ra vàthường đi đến bệnh viện rất sớm trong khi đó viêm ruột thừa lại chỉ đau lâm dâmvà do vậy người bệnh thường đến viện khá muộn, kể cả những người có học vấnhoặc chức vụ cao. - Tính chất đau cũng mang tính đặc thù cho từng bệnh. Đau dotắc ruột hoặc viêm đại tràng, giun lên ống mật, sỏi niệu quản … thường đau thànhtừng cơn điển hình.- Hướng lan của đau cũng mang tính đặc thù cho một số loạibệnh: đau của viêm tu ỵ, sỏi mật thường lan ra sau lưng, đau của thoát vị lỗ bịtthường lan xuống mặt trong đùi (do chèn vào thần kinh thẹn), viêm túi mật, áp xegan, viêm gan thường lan ra sau lưng và lên bả vai, sỏi tiết niệu thường lan xuốngbộ phận sinh dục. - Cũng trong khi hỏi về đau, ta phải hỏi th êm bệnh nhân trongkhi đau thì tư thế nào giúp cho bớt đau: nếu như thủng dạ dày, bệnh nhân khôngdám thở mạnh và gập người lại, hai tay ôm ghì lấy vùng bụng trên trong khi cơnđau do giun lên đường mật, bệnh nhân thường nằm chổng mông hoặc vắt chân lêntường. - Các dấu hiệu kèm theo của đau bụng cũng mang tính đặc trưng. Ví dụ nhưsỏi đường tiế ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khám bụng ngoại khoa và bệnh án ngoại khoa – Phần 1 Khám bụng ngoại khoa và bệnh án ngoại khoa – Phần 1Mục tiêu:Nắm vững các nội dung của một bệnh án ngoại khoaBiết cách khai thác v à pháthiện các triệu chứng lâm sàng (bao gồm các dấu hiệu cơ năng, toàn thân và thựcthể)Trình bày được giá trị của một số thăm dò cận lấm sàng cơ bảnTrình bày đượctóm tắt bệnh án: triệu chứng chính, các triệu chứng và các hội chứng.Nắm vữngcách thăm khám bụngXác định được các dấu hiệu bệnh lý về tình trạng thànhbụng, ổ bụngNắm được các triệu chứng của một số bệnh lý cấp cứu bụng thườnggặp.Hỏi bệnh:Trước khi hỏi bệnh, ta bắt buộc phải có những lời chào hỏi xã giao để làm quenvới bệnh nhân, tạo sự tin tưởng của người bệnh với mình đồng thời cũng để tìmhiểu trình độ dân trí và văn hoá của người bệnh để đề ra những câu hỏ i khai thácbệnh sử một cách thích hợp. Ngoài ra, những câu hỏi xã giao cũng để tìm hiểuthêm về hoàn cảnh gia đình, xã hội bệnh nhân. Đối với người văn hoá cao, cần cónhững câu hỏi tế nhị nhưng đối với những người văn hoá thấp thì lại chọn nhữngcâu hỏi đơn giản, cụ thể. Hiện nay, hầu như các bác sỹ và sinh viên đều bỏ quamục này và thường có một thái độ ban ơn, trịch thượng đối với người bệnh.Những biểu hiện này đang làm mất dần đi tính nhân văn, những thể hiện văn hoátối thiểu của một con người.Trong hỏi bệnh và trong khám bệnh, người làm bệnh án phải ghi vào những dấuhiệu dương tính (những dấu hiệu người bệnh có) và cả những dấu hiệu âm tính(là những dấu hiệu người bệnh không có) vì nhiững dấu hiệu âm tính có tác dụngrất lớn trong chẩn đoán phân biệt và chẩn đoán xác định. Ví dụ, đau quặn vùngmạng sườn có đái ra máu sẽ khác hẳn đau mạng sườn không đái ra máu, hoặc đauvùng dưới sườn phải có sốt nóng và rét sẽ rất khác đau dưới sườn phải không cósốt.Lý do vào viện.Lý do vào viện là lý do khiến người bệnh đi đến tiếp xúc với cơ sở y tế đầu tiênchứ không phải là lý do hành chính như chuyển viện hay hẹn vào mổ. Lý do vàoviện chính là dấu hiệu chủ đạo để khai thác trong quá trình hỏi bệnh. Ví dụ nhưbệnh nhân vào viện vì đau bụng. Khi bệnh nhân vào viện vì đau bụng thì việc khaithác dấu hiệu xung quanh đau bụng là quan trọng nhất. Đó sẽ là phần chính trongkhai thác bệnh sử. Nếu người bệnh đi đến cơ quan y tế đầu tiên là nôn ra máu thìviệc khai thác các đấu hiệu liên quan đến nôn ra máu sẽ là những phần chính càankhai thác trong bệnh sử.Bệnh sử:Bệnh sử là khai thác các thông tin xung quanh lý do vào viện. Đầu tiên ta phải hỏiđến cơ hội xuất hiện lý do này rồi vị trí xuất hiện của lý do vào viện đối vớinhững trường hợp đau vì thông thường mỗi một cơ quan nội tạng đều có một sựtương ứng ở bên ngoài. Ta bắt đầu hỏi đến thời gian xuất hiện của lý do vào việnvì chúng ta biết rằng sự tiến triển của bệnh thường tương quan với thời gian. Đó làđiều quan trọng trong sơ bộ nhìn nhận bệnh nhân có ở trong tình trạng cấp cứu haykhông. Nếu như lý do vào viện của bệnh nhân đã có từ lâu thì rất ít khi là mộtbệnh cấp cứu ngoại khoa và nếu như có cấp cứu ngoại khoa thì đây là điều tệ hại,có thể do tuyến y tế nhưng cũng có thể do người bệnh dân trí thấp hoặc không cókhả năng kinh tế đi khám bệnh và để đến khi không chịu đựng nổi họ mới đi khámbệnh. Tiếp theo thời gian xuất hiệu dấu hiệu đầu tiên ta cần hỏi đến cường độ củadấu hiệu này. Cường độ dữ dội hay vừa phải chỉ cảm thấy khó chịu. Cùng với hỏicường độ, ta cần hỏi tiếp đến đặc tính của dấu hiệu này: có cơn hay không, có liêntục hay không, có lan đi theo hướng nào. Sau khi đã hỏi đủ và kỹ các dấu hiệunày, ta mới hỏi đến các dấu hiệu khác xuất hiện kèm theo dấu hiệu này. Lấy mộtví dụ khi bệnh nhân bị đau bụng vì phần lớn bệnh nhân đến khám cấp cứu là vìđau bụng. Để khai thác dấu hiệu n ày:- Cơ hội xuất hiện của dấu hiệu đau. Có thểlà tự nhiên, nhưng cũng có thể sau khi ăn cỗ và uống rượu (viêm tu ỵ) sau khi laođộng nặng (sỏi tiết niệu), hoặc thay đổi thời tiết (loét dạ dày-tá tràng). - Đau từbao giờ, đau ở vùng nào của bụng. Nếu là vùng trên rốn thường ta hay nghĩ đến dạdày-tá tràng, nếu đau vùng dưới sườn phải, ta nghĩ đến gan mật, nếu đau hố chậuphải ta nghĩ đến ruột thừa, nếu đau vùng bụng dưới ta nghĩ đến phần phụ hoặcbàng quang. Sự suy nghĩ này xuất phát từ vị trí giải phẫu và hệ số tương quan giữavị trí bên ngoài với bệnh lý các tạng bên trong. Tuy nhiên nếu chúng ta lại địnhkiến vào quan điểm này thì có thể dẫn đến sai lầm trong chẩn đoán. Ví dụ như trẻem, khi bị viêm ruột thừa lại thường bắt đầu đau ở vùng trên rốn, hoặc không ítcác trường hợp đau hố chậu phải lại thuộc về bệnh lý phần phụ hay đại tr àng. -Cường độ đau cũng tuỳ thuộc vào từng loại bệnh. Ví dụ như thủng dạ dày thườngxuất hiện đột ngột, cơn đau dữ dội như bị đâm dao vào bụng khiến bệnh nhân phảigập người lại và vì cơn đau dữ dội nên họ nhớ rất chính xác thời gian xảy ra vàthường đi đến bệnh viện rất sớm trong khi đó viêm ruột thừa lại chỉ đau lâm dâmvà do vậy người bệnh thường đến viện khá muộn, kể cả những người có học vấnhoặc chức vụ cao. - Tính chất đau cũng mang tính đặc thù cho từng bệnh. Đau dotắc ruột hoặc viêm đại tràng, giun lên ống mật, sỏi niệu quản … thường đau thànhtừng cơn điển hình.- Hướng lan của đau cũng mang tính đặc thù cho một số loạibệnh: đau của viêm tu ỵ, sỏi mật thường lan ra sau lưng, đau của thoát vị lỗ bịtthường lan xuống mặt trong đùi (do chèn vào thần kinh thẹn), viêm túi mật, áp xegan, viêm gan thường lan ra sau lưng và lên bả vai, sỏi tiết niệu thường lan xuốngbộ phận sinh dục. - Cũng trong khi hỏi về đau, ta phải hỏi th êm bệnh nhân trongkhi đau thì tư thế nào giúp cho bớt đau: nếu như thủng dạ dày, bệnh nhân khôngdám thở mạnh và gập người lại, hai tay ôm ghì lấy vùng bụng trên trong khi cơnđau do giun lên đường mật, bệnh nhân thường nằm chổng mông hoặc vắt chân lêntường. - Các dấu hiệu kèm theo của đau bụng cũng mang tính đặc trưng. Ví dụ nhưsỏi đường tiế ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
38 trang 161 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 159 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 152 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 149 1 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 148 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 119 0 0 -
40 trang 98 0 0
-
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 94 0 0 -
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 91 0 0 -
40 trang 66 0 0