KHÁNG THỂ (Kỳ 2)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 171.99 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Các quyết định kháng nguyên trên phân tử globulin miễn dịch Do các kháng thể là các phân tử glycoprotein nên bản thân chúng cũng có thể hoạt động như một chất sinh miễn dịch để kích thích sinh ra một đáp ứng tạo kháng thể. Người ta chia các quyết định kháng nguyên (hoặc các epitop) trên phân tử globulin miễn dịch thành ba loại chính: các quyết định isotyp, các quyết định allotype và các quyết định idiotyp. Các quyết định này được định vị trên các vị trí đặc trưng của phân tử kháng thể. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KHÁNG THỂ (Kỳ 2) KHÁNG THỂ (Kỳ 2) Các quyết định kháng nguyên trên phân tử globulin miễn dịch Do các kháng thể là các phân tử glycoprotein nên bản thân chúng cũng cóthể hoạt động như một chất sinh miễn dịch để kích thích sinh ra một đáp ứng tạokháng thể. Người ta chia các quyết định kháng nguyên (hoặc các epitop) trên phântử globulin miễn dịch thành ba loại chính: các quyết định isotyp, các quyết địnhallotype và các quyết định idiotyp. Các quyết định này được định vị trên các vị tríđặc trưng của phân tử kháng thể. Các quyết định isotype Các quyết định isotype nằm trên vùng hằng định cho phép phân biệt cácchuỗi nặng của các lớp và các lớp nhỏ kháng thể khác nhau, và phân biệt các týpvà các týp nhỏ của các chuỗi nhẹ trong một loài nhất định. Mỗi một quyết địnhisotype được mã hoá bởi một gene của vùng hằng định riêng biệt và tất cả các cáthể trong cùng một loài đều có cùng các gene vùng hằng định mã hoá các quyếtđịnh này. Trong cùng một loài, từng cá thể sẽ biểu hiện tất cả các quyết địnhisotype trong huyết thanh của chúng. Các loài khác nhau được di truyền các genecủa vùng hằng định khác nhau và bởi vậy chúng có các isotype khác nhau. Do đókhi lấy globulin miễn dịch của loài này tiêm vào loài khác thì các quyết địnhisotype sẽ được nhận diện như là lạ và kích thích sinh ra đáp ứng tạo kháng thểchống lại các quyết định isotype của phân tử globulin miễn dịch lạ. Các kháng thểkháng isotype thường được sử dụng để xác định các lớp hoặc các lớp nhỏ củaglobulin miễn dịch trong huyết thanh hoặc xác định lớp kháng thể gắn trên bề mặttế bào B (SIg). Các quyết định allotyp Mặc dù tất cả các cá thể trong cùng một loài thừa hưởng cùng một loại bộgene isotype nhưng lại có một số gene allele khác nhau giữa các cá thể. Nhữnggene allele này mã hoá một số đoạn peptide có trình tự các acid amine khác nhau,người ta gọi đó là các quyết định allotype. Các quyết định này chỉ xuất hiện ở mộtsố chứ không phải là tất cả các thành viên của một loài. ở người đã xác định đượcallotype của 4 lớp nhỏ IgG, 1 lớp nhỏ IgA và chuỗi nhẹ (. Các quyết định allotypecủa chuỗi ( được ký hiệu là Gm. Cho đến nay đã nhận dạng được 25 loại quyếtđịnh allotype Gm, chúng được ký hiệu bằng chữ G (viết tắt của chữ gamma) sauđó là số thứ tự lớp nhỏ rồi đến số thứ tự allotype [ví dụ G1m(1), G2m(23),G3m(11), G4m(4a)]. Người ta chỉ mới xác định được allotype của lớp nhỏ IgA2được ký hiệu là A2m(1) và A2m(2). Chuỗi nhẹ ( có 3 quyết định allotype được kýhiệu là (m(1), (m(2), và (m(3). Mỗi allotype này có sự khác nhau từ 1 đến 4 acidamine được mã hoá bởi các gene allele khác nhau. Các kháng thể chống các quyết định allotype có thể thu được bằng cáchtiêm các globulin miễn dịch của một cá thể này cho một cá thể khác trong cùngloài không có các quyết định allotype tương ứng. Kháng thể kháng allotype cũngcó thể xuất hiện ở người phụ nữ trong quá trình mang thai khi đáp ứng với quyếtđịnh allotype của người chồng có trên phân tử globulin miễn dịch của người con.Kháng thể kháng allotype cũng có thể xuất hiện sau khi truyền máu. Các quyết định idiotype Trình tự các acid amine có duy nhất ở vùng VH và VL của một phân tửkháng thể biết trước có thể hoạt động không chỉ như một vị trí kết hợp khángnguyên mà còn hoạt động như một quyết định kháng nguyên. Các quyết địnhidiotype được sinh ra do các vùng thay đổi của chuỗi nặng và chuỗi nhẹ hình thànhmột cấu trúc đặc biệt về không gian. Mỗi một kháng nguyên riêng lẻ của vùngthay đổi được xem như là một quyết định idiotype hay còn gọi là idiotope (xemhình 5.11c). Trong một số trường hợp idiotope có thể là một vị trí kết hợp khángnguyên thực sự, nhưng trong một số trường hợp một idiotope cũng có thể là mộtđoạn của vùng thay đổi nằm ngoài vị trí kết hợp kháng nguyên. Mỗi phân tử khángthể sẽ có nhiều idiotope. Tất cả các idiotop của một phân tử kháng thể sẽ tạo rahình ảnh idiotype của kháng thể đó. Bởi vì các kháng thể do các tế bào B nằm trong cùng một clone sản xuất racó vùng thay đổi giống hệt nhau nên chúng có cùng một hình ảnh idiotype. Cáckháng thể không cùng một clone tế bào B sản xuất ra cũng có thể có quyết địnhidiotype giống nhau. Quyết định idiotype này được gọi là quyết định idiotypechung giống nhau, chúng phản ảnh sự huy động phổ biến cùng một gene vùngthay đổi của tế bào mầm bởi các tế bào B khác nhau của cùng một dòng thuầnchủng. Các kháng thể kháng idiotype được tạo ra bằng cách thu hẹp đến mức tốithiểu sự khác biệt isotype hoặc allotype để đến mức có thể nhận dạng được sựkhác biệt idiotype. Thông thường có thể sử dụng một kháng thể thuần khiết nhưprotein u tuỷ hoặc một kháng thể đơn clone. Tiêm kháng thể này cho một cơ thểnhận đồng gene thì sẽ hình thành được kháng thể kháng idiotype. Một trong những thí nghiệm sớm nhất để chứ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
KHÁNG THỂ (Kỳ 2) KHÁNG THỂ (Kỳ 2) Các quyết định kháng nguyên trên phân tử globulin miễn dịch Do các kháng thể là các phân tử glycoprotein nên bản thân chúng cũng cóthể hoạt động như một chất sinh miễn dịch để kích thích sinh ra một đáp ứng tạokháng thể. Người ta chia các quyết định kháng nguyên (hoặc các epitop) trên phântử globulin miễn dịch thành ba loại chính: các quyết định isotyp, các quyết địnhallotype và các quyết định idiotyp. Các quyết định này được định vị trên các vị tríđặc trưng của phân tử kháng thể. Các quyết định isotype Các quyết định isotype nằm trên vùng hằng định cho phép phân biệt cácchuỗi nặng của các lớp và các lớp nhỏ kháng thể khác nhau, và phân biệt các týpvà các týp nhỏ của các chuỗi nhẹ trong một loài nhất định. Mỗi một quyết địnhisotype được mã hoá bởi một gene của vùng hằng định riêng biệt và tất cả các cáthể trong cùng một loài đều có cùng các gene vùng hằng định mã hoá các quyếtđịnh này. Trong cùng một loài, từng cá thể sẽ biểu hiện tất cả các quyết địnhisotype trong huyết thanh của chúng. Các loài khác nhau được di truyền các genecủa vùng hằng định khác nhau và bởi vậy chúng có các isotype khác nhau. Do đókhi lấy globulin miễn dịch của loài này tiêm vào loài khác thì các quyết địnhisotype sẽ được nhận diện như là lạ và kích thích sinh ra đáp ứng tạo kháng thểchống lại các quyết định isotype của phân tử globulin miễn dịch lạ. Các kháng thểkháng isotype thường được sử dụng để xác định các lớp hoặc các lớp nhỏ củaglobulin miễn dịch trong huyết thanh hoặc xác định lớp kháng thể gắn trên bề mặttế bào B (SIg). Các quyết định allotyp Mặc dù tất cả các cá thể trong cùng một loài thừa hưởng cùng một loại bộgene isotype nhưng lại có một số gene allele khác nhau giữa các cá thể. Nhữnggene allele này mã hoá một số đoạn peptide có trình tự các acid amine khác nhau,người ta gọi đó là các quyết định allotype. Các quyết định này chỉ xuất hiện ở mộtsố chứ không phải là tất cả các thành viên của một loài. ở người đã xác định đượcallotype của 4 lớp nhỏ IgG, 1 lớp nhỏ IgA và chuỗi nhẹ (. Các quyết định allotypecủa chuỗi ( được ký hiệu là Gm. Cho đến nay đã nhận dạng được 25 loại quyếtđịnh allotype Gm, chúng được ký hiệu bằng chữ G (viết tắt của chữ gamma) sauđó là số thứ tự lớp nhỏ rồi đến số thứ tự allotype [ví dụ G1m(1), G2m(23),G3m(11), G4m(4a)]. Người ta chỉ mới xác định được allotype của lớp nhỏ IgA2được ký hiệu là A2m(1) và A2m(2). Chuỗi nhẹ ( có 3 quyết định allotype được kýhiệu là (m(1), (m(2), và (m(3). Mỗi allotype này có sự khác nhau từ 1 đến 4 acidamine được mã hoá bởi các gene allele khác nhau. Các kháng thể chống các quyết định allotype có thể thu được bằng cáchtiêm các globulin miễn dịch của một cá thể này cho một cá thể khác trong cùngloài không có các quyết định allotype tương ứng. Kháng thể kháng allotype cũngcó thể xuất hiện ở người phụ nữ trong quá trình mang thai khi đáp ứng với quyếtđịnh allotype của người chồng có trên phân tử globulin miễn dịch của người con.Kháng thể kháng allotype cũng có thể xuất hiện sau khi truyền máu. Các quyết định idiotype Trình tự các acid amine có duy nhất ở vùng VH và VL của một phân tửkháng thể biết trước có thể hoạt động không chỉ như một vị trí kết hợp khángnguyên mà còn hoạt động như một quyết định kháng nguyên. Các quyết địnhidiotype được sinh ra do các vùng thay đổi của chuỗi nặng và chuỗi nhẹ hình thànhmột cấu trúc đặc biệt về không gian. Mỗi một kháng nguyên riêng lẻ của vùngthay đổi được xem như là một quyết định idiotype hay còn gọi là idiotope (xemhình 5.11c). Trong một số trường hợp idiotope có thể là một vị trí kết hợp khángnguyên thực sự, nhưng trong một số trường hợp một idiotope cũng có thể là mộtđoạn của vùng thay đổi nằm ngoài vị trí kết hợp kháng nguyên. Mỗi phân tử khángthể sẽ có nhiều idiotope. Tất cả các idiotop của một phân tử kháng thể sẽ tạo rahình ảnh idiotype của kháng thể đó. Bởi vì các kháng thể do các tế bào B nằm trong cùng một clone sản xuất racó vùng thay đổi giống hệt nhau nên chúng có cùng một hình ảnh idiotype. Cáckháng thể không cùng một clone tế bào B sản xuất ra cũng có thể có quyết địnhidiotype giống nhau. Quyết định idiotype này được gọi là quyết định idiotypechung giống nhau, chúng phản ảnh sự huy động phổ biến cùng một gene vùngthay đổi của tế bào mầm bởi các tế bào B khác nhau của cùng một dòng thuầnchủng. Các kháng thể kháng idiotype được tạo ra bằng cách thu hẹp đến mức tốithiểu sự khác biệt isotype hoặc allotype để đến mức có thể nhận dạng được sựkhác biệt idiotype. Thông thường có thể sử dụng một kháng thể thuần khiết nhưprotein u tuỷ hoặc một kháng thể đơn clone. Tiêm kháng thể này cho một cơ thểnhận đồng gene thì sẽ hình thành được kháng thể kháng idiotype. Một trong những thí nghiệm sớm nhất để chứ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kháng thể bài giảng miễn dịch học y học cơ sở kiến thức bệnh học giáo trình miễn dịchGợi ý tài liệu liên quan:
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 180 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
Giáo trình Y học cơ sở (Tài liệu dành cho Dược trung cấp) - Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh
285 trang 58 1 0 -
Nước ép quả: Nguồn dinh dưỡng cần thiết cho nhân viên văn phòng
3 trang 41 0 0 -
Ngôn ngữ ở bé (18-24 tháng tuổi)
3 trang 36 0 0 -
21 trang 34 0 0
-
Tiểu đường liên quan liệt dương thế nào ?
4 trang 34 0 0 -
Một số hình ảnh siêu âm của bệnh lý túi mật (Kỳ 1)
5 trang 34 0 0 -
Những trái cây hữu ích và có hại với bà bầu
10 trang 33 0 0 -
Nghỉ hè – làm sao cân bằng học và chơi
3 trang 32 0 0