Danh mục

Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ thô tinh trong khẩu phần ăn lên năng suất và chất lượng sữa, phòng bệnh chân móng

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 295.38 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu nhằm khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ thô tinh trong khẩu phần ăn trên phòng trị chân móng và ảnh hưởng của nó lên năng xuất và chất lượng sữa, điểm thể trạng, lên và phối giống tại Trại bò sữa, Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao Khoa học Công nghệ, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 6 năm 2018. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ thô tinh trong khẩu phần ăn lên năng suất và chất lượng sữa, phòng bệnh chân móng KHẢO SÁT ẢNH HƢỞNG CỦA TỈ LỆ THÔ TINH TRONG KHẨU PHẦN ĂN LÊN NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƢỢNG SỮA, PHÒNG BỆNH CHÂN MÓNG Dƣơng Nguyên Khang*, Trần Xuân Lam Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao KHCN, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh * Email: duongnguyenkhang@gmail. com TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ thô tinh trong khẩu phần ăn trên phòng trị chân móng và ảnh hưởng của nó lên năng xuất và chất lượng sữa, điểm thể trạng, lên và phối giống tại Trại bò sữa, Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao Khoa học Công nghệ, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 6 năm 2018. Kết quả cho thấy năng xuất sữa ở khẩu phần có tỉ lệ thô/tinh thấp 40/60 là cao nhất, kế đến ở khẩu phần có tỉ lệ thô/tinh 60/40 và thấp nhất ở khẩu phần có tỉ lệ thô/tinh 80/20 lần lượt là 18,54; 17,51 và 16,74 kg/con/ngày (P3.88%, and lowest in diet with roughage-concentrate ratio of 40/60 by 3.78%. Movement and body scores in diet with roughage-concentrate ratio of 80/20 and 60/40 better than in diet with roughage-concentrate ratio of 40/60 by 0.5. The number of artificial insemination in diet with roughage-concentrate ratio of 80/20 was higher than that of diet with roughage-concentrate ratio 40/60 by 0.5 times. Keywords: Roughage: concentrate ratio, milk yield and quality, body score 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngành chăn nuôi bò sữa của nước ta đang phát triển cả về số lượng lẫn năng suất. Nếu năm 2007, số lượng đàn bò sữa của cả nước chỉ khoảng 110 nghìn con, với trên 55 nghìn đang vắt sữa, 80% bò sữa được nuôi ở các tỉnh phía Nam và 20% bò sữa nuôi ở các tỉnh phía Bắc (Đỗ Kim Tuyên và ctv, 2007). Thì năm 2016, tổng đàn bò sữa của cả nước là 282.990, trong đó tổng đàn bò cái là 179.769 con (Niên giám thống kê, 2016). Cùng với sự phát triển của đàn bò thì diện đất canh tác và trồng cỏ ngày càng thu hẹp làm cho người chăn nuôi bò sữa gặp nhiều khó khăn trong việc chủ động nguồn thức ăn thô xanh nhất là vào mùa khô. Vì thế giải pháp thay thế thức ăn thô bằng nguồn thức ăn tinh tại hộ chăn nuôi bò sữa làm mất cân bằng tinh thô trong khẩu phần ăn cho bò. Sự mất cân bằng thô tinh trong khẩu phần đã dẫn đến nhiều vấn đề về sức khỏe của đàn bò như bệnh sinh sản, ketosis, axit dạ cỏ, viêm chân móng... (Nguyễn Võ Thu Trúc và ctv, 2016), khi khảo sát ở Thành phố Hồ Chí Minh, trên khẩu phần được cho ăn riêng từng loại thức ăn với tỉ lệ thô tinh là 43/57 đã ảnh hưởng đến quá trình lên men và nguy cơ axit dạ cỏ. Khi bò bị axit dạ cỏ đã sản sinh nhiều axit lactic làm pH giảm và mất khả năng đệm dạ cỏ, từ đó làm giảm tiêu hóa xơ, tăng nguy cơ bệnh chân móng, giảm năng suất và chất lượng sữa. Ở Việt Nam, một vài nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa thức ăn tinh trong khẩu phần đến chân móng bò sữa (Nguyễn Xuân Trạch, 2004), ảnh hưởng của tỉ lệ thô tinh trong khẩu phần đến tình trạng bệnh viêm móng (Đoàn Đức Vũ và ctv, 2001). Tỉ lệ tinh cao hơn thô trong khẩu phần đã làm bò ngày càng bị axit dạ cỏ nặng nề. Khi bò bị axit dạ cỏ đã cho thấy là một yếu tố quan trọng hàng đầu gây bệnh chân móng (Sarel và Shearer, 2006). Khi pH dạ cỏ giảm dưới 5 thì sản xuất axit lactic nâng cao làm tăng độ chua dạ cỏ, axit lactic hấp thu vào máu gây toan huyết, gây giải phóng histamin làm mỏng thành mạch máu, nhất là mạch máu dưới bàn chân chịu lực kém nên dễ vỡ. Khi đó lượng oxy và dưỡng chất đến nuôi móng bị thiếu hụt làm các mô bào dưới đế móng bị chết và gây vết loét làm tổn thương và bò bị đau móng 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP 2.1 Thời gian và địa điểm Từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 6 năm 2018 tại Trại bò sữa, Trung Tâm Nghiên Cứu Và Chuyển Giao Công Nghệ, Trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2 Phƣơng pháp và đối tƣợng Chọn ngẫu nhiên 15 bò sữa lai có máu trên ¾ Holstein Friesian. Bò được thử nghiệm có cùng điểm thể trạng và vận động trên 3. Bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên chia làm 3 lô, lặp lại 5 con/lô, các lô nghiệm thức được bố trí vào 3 lô theo khẩu phần có tỉ lệ thô tinh lần lượt là (1) 80:20, (2) 60:40 và (3) 40:60. 2.3 Chỉ tiêu theo dõi Thành phần dinh dưỡng, lượng và nhu cầu dưỡng chất thức ăn tiêu thụ, năng suất và chất lượng sữa, tế bào soma sữa (SCC), khả năng lên và phối giống sau khi sanh. 1115 2.4 Xử lí số liệu Số liệu thu thập được xử lý sơ bộ bằng phần mền Microsoft Excel (2013), và được xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab (version 16.2). Các giá trị trung bình được so sánh bằng trắc nghiệm Tukey và các tỷ lệ được so sánh bằng trắc nghiệm χ2, sự khác biệt có ý nghĩa khi giá trị P ≤ 0,05. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Ảnh hƣởng tỉ lệ thô tinh trên lƣợng ăn vào Kết quả thành phần hóa học thức ăn, loại và lượng ăn vào được trình bày qua Bảng 1 và 2. Bảng 1 cho thấy thành phần hóa học của thực liệu đã sử dụng trong các lô thí nghiệm là ổn định suốt thời gian khảo sát. Hèm bia có hàm lượng đạm và xơ trung tính cao thích hợp cho chăn nuôi bò sữa. Kết quả này phù hợp với nhiều khảo sát trước đây (trích dẫn nghiên cứu) đã cho rằng Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nhà máy sản xuất bia nên nguồn bã bia tươi đã là nguồn cung phụ phẩm dễ dàng cho ngành chăn nuôi bò sữa của Thành phố. Hơn nữa, bã mì có hàm lượng xơ trung tính cũng cao, còn nhiều tinh bột, được cung cấp từ các nhà máy chế biến tinh bột quanh Thành phố cũng là nguồn cung năng lượng dồi giàu cho bò sữa. Kết quả Bảng 2 cho thấy tỉ lệ thô tinh trong khẩu phần đã đảm bảo đúng theo bố trí thí nghiệm và vùng chăn nuôi bò sữa quanh Thành phố Hồ Chí Minh. Thực tế sản xuất đã cho thấy bò sữa ăn 80% thức ăn thô xanh là không thực tế bởi vì hầu hết trại chăn nuôi bò sữa đều bị khan hiếm trầm trọng nguồn thức ăn thô xanh này. Đa số đã thay thế bằng thức ăn tinh để đảm bảo khẩu ...

Tài liệu được xem nhiều: