Thông tin tài liệu:
Thường thì bạn bè không mấy khi cùng chung kinh doanh. Nhưng trong liên doanh có những vấn đề tiềm ẩn, nếu không được đề cập tới rõ ràng thì sẽ dẫn tới việc đổ vỡ hoặc là tình bạn hay công việc.
Khi bạn bè cùng kinh doanh Nếu như mối quan hệ được dựa trên cơ sở cùng hùn hạp trị giá tài sản, thì việc hợp tác kinh doanh như các cổ đông là có lý. Trị giá tài sản ràng buộc mọi người và ràng buộc các cổ đông....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khi bạn bè cùng kinh doanh
Khi bạn bè cùng kinh
doanh
Thường thì bạn bè không mấy khi cùng chung kinh doanh. Nhưng trong liên
doanh có những vấn đề tiềm ẩn, nếu không được đề cập tới rõ ràng thì sẽ dẫn
tới việc đổ vỡ hoặc là tình bạn hay công việc.
Khi bạn bè cùng kinh doanh
N ếu như mối quan hệ được dựa trên cơ sở cùng hùn hạp trị giá tài sản, thì
việc hợp tác kinh doanh như các cổ đông là có lý. Trị giá tài sản ràng buộc
mọi người và ràng buộc các cổ đông.
Vấn đề tiền bạc
Tuy nhiên, dự kiến được rằng giá trị tài sản và mối quan hệ bạn b è sẽ được
thử thách trong các tình huống kinh doanh. Sự hiểu lầm về vấn đề tiền bạc
luôn là vấn đề đầu tiên.
Đ ừng nên b ị sa vào cái bẫy của việc vì tình bạn mà né tránh thảo luận về tiền
nong! Chúng ta vẫn hay nghe những lời phàn nàn đáng tiếc như vậy, đó là câu
nói của những người bạn đ ã từng hùn hạp kinh doanh. Vì thế, điều quan trọng
là phải quy định rõ ràng việc các cổ đông hùn tiền và rút tiền khỏi kinh doanh
như thế nào.
Tiền mà các cổ đông đưa vào kinh doanh chia làm 2 loại. Loại thứ nhất là đầu
tư. Đây là tiền để làm vốn kinh doanh. Loại thứ hai là khoản cho vay. Khi
kinh doanh cần nhiều tiền hơn mức vốn thì cần vay thêm. Bên cạnh những
nguồn tiền chính thức như vay ngân hàng, có thể vay thêm từ chính những
người chủ. Cũng giống như khoản tiền vay ngân hàng, kho ản vay ngoài này
cũng phải được trả đúng kì hạn và trả lãi.
Theo phương pháp lãi suất được định ra, có thể có ý kiến là mức lãi suất này
thấp hơn mức trả ngân hàng, và không có những chi phí phát sinh điều tra về
tư cách người vay đối với chủ sở hữu. Không cần chi phí cho khoản này cũng
như kho ản tiền dự phòng đối với nợ quá hạn. Phí thu tiền và hành chính cũng
được giảm thiểu. Tuy vậy, tất cả những công việc trên đều phải được viết ra
bằng văn bản.
Tiền có thể hoàn lại cho chủ theo 3 cách. Cách thứ nhất là qua các khoản phí
trả cho thời gian và tài năng của người chủ đóng góp vào việc điều hành công
ty. Cơ bản thì ai làm việc nhiều hơn sẽ đ ược trả nhiều hơn. Nếu tiền mặt của
công ty không đ ủ để trả thì phải có sổ ghi lại. Đây chính là khoản tiền trả cho
công việc chuyên môn.
Cách thứ hai là trả lại các khoản tiền mà những người chủ cho công ty vay.
Tiền phải trả lại đủ cả vốn lẫn lãi. Những thoả thuận tiền vay này phải được
làm rõ kể từ ngày bắt đầu cho vay, với thời hạn và tỉ suất. Như vậy, số tiền mà
mỗi cổ đông nhận khác nhau. Ai cho vay nhiều hơn thì người đó được trả
nhiều hơn. Đó chính là khoản tiền mà các cổ đông cho công ty vay.
Cách thứ ba là qua cổ tức. Sau khi thanh toán tất cả các chi phí, công ty sẽ có
lãi và cổ tức sẽ được chia. Khoản này chỉ hạn chế trong việc chia cổ tức khi
không có các kho ản cho vay ngoài từ các cổ đông. Tỉ suất số tiền mỗi cổ đông
được nhận sẽ phải dựa trên số tiền họ góp vốn. Đây gọi là khoản lợi nhuận
của các cổ đông.
Vấn đề thời gian
Một lĩnh vực tiềm ẩn khác dễ gây xung đột là liên quan đến thời gian được
các cổ đông đóng góp vào kinh doanh. Thường thì vẫn cho rằng các cổ đông
làm việc ngang bằng nhau về thời gian. Nó chỉ trở thành vấn đề nếu các cổ
đông không làm rõ những công việc chuyên môn mà họ thực hiện. Phải nhắc
lại, công việc chuyên môn được các cổ đông thực hiện phải được trả xứng
đáng so với mức giá trên thị trường, cũng như trả cho các nhân viên bình
thường khác làm việc trong công ty.
V ấn đề thời gian và tiền bạc có liên quan với nhau. Nếu vấn đề này được làm
rõ ngay từ đầu thì có thể bàn bạc được. Nếu một cổ đông không dành thời
gian đ ể điều hành công việc có nghĩa là người này không dùng thời gian như
một chuyên viên chủ chốt. Cổ đông này được gọi là 'cổ đông ngủ'. Họ góp
tiền vốn và các khoản tiền cho vay. Khi tính toán tiền giữa các cổ đông thì
những khoản này cũng phải được tính đến.
Ngoài ra, có những nguồn lực không phải là tiền bạc cũng như thời gian ví
như tài sản đối với kinh doanh. Những tài sản này có thể vô hình hoặc hữu
hình. Tài sản hữu hình là những thứ như bàn ghế, đồ đạc, vi tính,... Những tài
sản này được các cổ đông cho công ty mượn. Hay vì mua sắm thì các cổ đông
để cho công ty sử dụng các tài sản này. Các tài sản vô hình như là các mối
quan hệ kinh doanh của cổ đông, mạng lưới và các tiện ích khác mà công ty
có thể được hưởng.
Các tài sản hữu hình có thể được thoả thuận qua hợp đồng cho thuê hàng
tháng dựa trên cơ sở tính vào tiền vốn đầu tư. Ví như trả tiền thuê mướn, hay
là trả theo dạng cổ tức lãi đầu tư. Trong trường hợp thứ hai, đối với tài sản vô
hình, có thể trả theo dạng hoa hồng hay là theo phí công việc.
Rất thuận lợi nếu bạn bè, hay họ hàng nên làm rõ các vấn đề trước khi tiến
hành kinh doanh. Hãy suy nghĩ xem các mối quan hệ tốt đẹp sẽ được duy trì
một khi lường trước được mọi vấn đề ngay từ ban đầu.
...