Danh mục

Khi nào khẳng định mắc bệnh đái tháo đường?

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 172.44 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để biết một người bị đái tháo đường hay không, không nhất thiết cần tiêu chuẩn có đường trong nước tiểu. Người nghi ngờ có bệnh buộc phải làm xét nghiệm đường máu hoặc làm nghiệm pháp tăng đường máu.Phải xét nghiệm rất kỹ mới khẳng định được mắc đái tháo đường.Đái tháo đường (ĐTĐ) là một hội chứng có đặc tính biểu hiện bằng tǎng đường máu, do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin hoặc do có sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động của insulin. Trên thực tế, khi người bệnh có đường...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khi nào khẳng định mắc bệnh đái tháo đường? Khi nào khẳng định mắc bệnh đái tháo đường? Để biết một người bị đái tháo đường hay không, không nhất thiết cầntiêu chuẩn có đường trong nước tiểu. Người nghi ngờ có bệnh buộc phải làmxét nghiệm đường máu hoặc làm nghiệm pháp tăng đường máu. Phải xét nghiệm rất kỹ mới khẳng định được mắc đái tháo đường. Đái tháo đường (ĐTĐ) là một hội chứng có đặc tính biểu hiện bằng tǎngđường máu, do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin hoặc do có sự suy yếutrong bài tiết và hoạt động của insulin. Trên thực tế, khi người bệnh có đườngtrong nước tiểu cũng là lúc bệnh đã ở giai đoạn muộn, nhiều khi đã có biến chứng,nhất là đối với những người mắc bệnh ĐTĐ type 2. Xét nghiệm đường máu là rất cần thiết để phát hiện mắc ĐTĐ Tổ chức Y tế Thế giới quy định 3 tiêu chí để chẩn đoán bệnh ĐTĐ nhưsau: - Đường huyết tương lúc đói (tối thiểu là 8 giờ sau khi ǎn) >7mmol/L (>126mg/dl). - Đường huyết tương giờ thứ hai sau nghiệm pháp tǎng đường máu >11,1mmol/L (>200mg/dl). - Đường huyết tương ở thời điểm bất kỳ >11,1 mmol/L (>200mg/dl), nhưngkèm theo các triệu chứng uống nhiều, đái nhiều và gầy sút. Như vậy để biết mình có bị ĐTĐ hay không, nhất thiết phải đến các cơ sở ytế để các thầy thuốc (nhất là các bác sĩ chuyên khoa) thǎm khám, đặc biệt phải làmxét nghiệm đường máu mới có thể kết luận chính xác được. Biến chứng Biến chứng của bệnh ĐTĐ là không thể tránh khỏi và được chia thành 2loại: - Biến chứng cấp tính: Hạ đường huyết, nhiễm toan xêtôn và hôn mê nhiễmtoan xêtôn, hôn mê do tǎng đường máu hay hôn mê tǎng áp lực thẩm thấu, hôn mênhiễm toan lactic... Những biến chứng này xảy ra đột ngột, diễn biến nhanh, triệuchứng lâm sàng đa dạng và phong phú. Những biến chứng này đe dọa đến mạngsống của người bệnh nếu không được cấp cứu kịp thời. - Biến chứng mạn tính: Tổn thương các mạch máu lớn, gây bệnh tim -mạch, hoại tử chi; tổn thương mạch máu nhỏ gây mù lòa, bệnh lý cầu thận, hủyhoại các dây thần kinh; giảm khả nǎng chống lại các bệnh nhiễm trùng...). Đây lànhững biến chứng xảy ra liên tục và kín đáo nên không dễ nhận ra, thường khiphát hiện được thì chúng đã ở giai đoạn muộn. Tuy không thể tránh được các biến chứng, nhưng thầy thuốc chuyên khoavẫn có thể làm chậm sự tiến triển và mức độ trầm trọng của bệnh bằng cách quảnlý tốt bệnh nhân. Ngoài ra cũng cần lưu ý, biến chứng xuất hiện sớm hay muộncòn phụ thuộc vào typ ĐTĐ. Ví dụ biến chứng mạch máu nhỏ, thường xảy ra ởbệnh nhân ĐTĐ typ 1 sau 5 nǎm mắc bệnh, nhưng lại có ngay từ khi bệnh mớiđược chẩn đoán ở người ĐTĐ typ 2. Lưu ý - ĐTĐ có thể là một bệnh, nhưng cũng có thể là một triệu chứng của mộtbệnh nội tiết khác. Trong trường hợp là triệu chứng của một bệnh (chẳng hạn mộttrong những triệu chứng của bệnh nhiễm độc giáp hay hội chứng Cushing... là tǎngđường máu) thì khi chữa khỏi bệnh đó, triệu chứng ĐTĐ cũng sẽ khỏi hẳn. - Thứ hai, ĐTĐ có nguyên nhân là thiếu insulin, nhưng cũng có thể donguyên nhân khác như khả nǎng hoạt động của insulin bị suy giảm, hay tình trạngbệnh lý tại thụ thể (nơi tiếp nhận glucose được insulin hoạt hóa), hoặc bệnh lý bêntrong tế bào, hoặc do sự kháng lại insulin ở mô đích... Trong những trường hợpnày, lượng insulin lại không thiếu, vì thế cách điều trị bệnh sẽ không giống nhau.Hay nói cách khác, người ta phân biệt có hai loại ĐTĐ: ĐTĐ type 1 và ĐTĐ type2. Trong ĐTĐ type 1 (còn gọi là ĐTĐ phụ thuộc insulin), do hậu quả của quátrình tự miễn dịch mạn tính, các tế bào bêta (tế bào tiết ra insulin) của đảo tụyLangerhans bị hủy hoại, dẫn đến tình trạng thiếu hoặc không còn insulin trongmáu. Do vậy khi điều trị ĐTĐ type 1 buộc phải dùng insulin hay có nghĩa là cầnphải đưa vào cơ thể một lượng insulin ngoại lai để duy trì chuyển hóa bình thườngcủa cơ thể. Ngược lại, bệnh nhân ĐTĐ type 2 thường không phụ thuộc vào việc tiêminsulin. Tuy nhiên, sau một thời gian nhiều người trong số họ có biểu hiện giảmsản xuất insulin và đòi hỏi có insulin bổ sung, đặc biệt khi bị cǎng thẳng (stress)hoặc ốm đau. Các nghiên cứu cho thấy ở bệnh nhân ĐTĐ type 2, mỗi nǎm tuyếntụy mất đi 4 % các tế bào sản xuất insulin. Ai dễ bị ĐTĐ? Ngày nay, người ta biết ĐTĐ type 2 có thể phòng ngừa được. Nhiều nghiêncứu cho thấy nếu bệnh được phát hiện từ khi còn là yếu tố nguy cơ thì có thể sửdụng chế độ ǎn, chế độ luyện tập để làm giảm một cách đáng kể tỷ lệ người mắcbệnh. Các yếu tố nguy cơ đó là: - Thừa cân hoặc béo phì (chỉ số trọng lượng cơ thể BMI >23). - Tǎng huyết áp vô cǎn. - Trong gia đình có người mắc bệnh ĐTĐ ở thế hệ F1. - Tiền sử có ĐTĐ thai nghén hoặc khi sinh, con có cân nặng trên 4kg. - Các đối tượng có nguy cơ cao: N ...

Tài liệu được xem nhiều: