Jo Ha Kyu, triển lãm video – ảnh của cặp vợ chồng nghệ sĩ Nguyễn Trinh Thi và Jamie Maxtone-Graham tại Trung tâm Văn hóa Nhật Bản có một điều dễ chịu là nó không ấn ngay vào tay người xem một thông điệp nặng trịch. Nhiều triển lãm nghệ thuật gần đây có xu hướng làm ta có cảm giác đang nghe một bài giảng đạo đức. Môi trường thì xuống cấp, các đô thị thì bị phá hủy, người nghèo thì nghèo, người giàu thì văn hóa lùn. Tới những lễ khai mạc của các triển lãm này...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Không cần thông điệp. Đó chỉ là cuộc sống, đang trôi
Không cần thông điệp. Đó chỉ là cuộc
sống, đang trôi
Jo Ha Kyu, triển lãm video – ảnh của cặp vợ chồng nghệ sĩ Nguyễn
Trinh Thi và Jamie Maxtone-Graham tại Trung tâm Văn hóa Nhật Bản
có một điều dễ chịu là nó không ấn ngay vào tay người xem một thông
điệp nặng trịch. Nhiều triển lãm nghệ thuật gần đây có xu hướng làm ta
có cảm giác đang nghe một bài giảng đạo đức. Môi trường thì xuống
cấp, các đô thị thì bị phá hủy, người nghèo thì nghèo, người giàu thì
văn hóa lùn. Tới những lễ khai mạc của các triển lãm này ta có cảm
giác mặc cảm tự ti, bởi ở đó ta thấy những khách tham dự, trong và
ngoài nước, một tay cốc rượu vang, tay kia IPhone, lúc nào cũng bàn
tán hết sức sôi nổi. Hẳn họ đang bàn xem phải thay đổi thế giới như thế
nào. Ta tự ti vì chả biết có cách nào để thay đổi thế giới cả.
Jo Ha Kyu, như Wikipedia cho biết, là một kỹ thuật được ứng dụng cho
nhiều bộ môn nghệ thuật Nhật Bản như âm nhạc, kịch Noh, trà đạo và
võ thuật. Trong Jo Ha Kyu, mọi hành động hay cố gắng đều có ba
phần: bắt đầu chậm rãi, tăng tốc, và kết thúc đột ngột. Nghe giống như
một cuộc làm tình – ít nhất là từ cái nhìn của đàn ông. Thông cáo báo
chí của Trung tâm Văn hóa Nhật Bản chọn một cách diễn đạt ít lãng
mạn hơn, và trích dẫn nhà mỹ học thế kỷ 14 của Nhật Bản, Zeami,
người ví nó như một dòng suối, dẫn tới một dòng sông chảy xiết trước
khi là thác nước đổ xuống một mặt hồ tĩnh lặng. Zeami cũng coi Jo Ha
Kyu là một khái niệm phổ quát, nằm trong sự vận hành của vạn vật (và
như vậy so sánh trên kia của ta hẳn sẽ nhận được sự đồng tình của ông.)
Tuy nhiên, bộ phim dài 12 phút của Nguyễn Trinh Thi không quá bám
sát kết cấu ba phần đặc trưng cho Jo Ha Kyu, và những ai muốn qua bộ
phim tìm hiểu về Nhật Bản sẽ phải thất vọng. Nó không có một cốt
chuyện rõ ràng, mà là tập hợp của những tích tắc thị giác ngắn ngủi.
Đầu phim, một cô bé 8 tuổi (con gái tác giả) xuất hiện như trong vai trò
người dẫn chuyện, mời chúng ta vào một cuộc lang thang không mục
đích ở trong không gian Tokyo. Cuối phim, cô bé lại xuất hiện báo hiệu
cho hồi kết. Trừ cảnh một số người phụ nữ mặc kimono đi guốc gỗ
chạy những bước ngắn trên trên phố hay đứng đợi ở ga tàu, và cảnh
biển người đi bộ trùng điệp băng qua đường ở khu Shibuya, hầu như
không có hình ảnh nào đặc trưng cho Nhật Bản. Bộ phim nói nhiều về
tác giả của nó hơn là nói về Tokyo, và nó thể hiện một trạng thái hơn là
một câu chuyện. Những cư dân vô danh của thành phố xuất hiện ngắn
ngủi trong vài giây, phần lớn trong trạng thái ngủ, chờ đợi, một mình,
hay chỉ đơn giản nhìn vào camera. Thang cuốn chạy trong sân ga không
bóng người, một biển hiệu quảng cáo nhấp nháy trong đêm, tập hợp
những cảnh ngắn ngủi, không mục đích rõ ràng và bị cắt đột ngột này
tạo ra một cảm giác cô đơn, căng thẳng, chờ đợi cái gì đó xuất hiện.
Cảnh mấy trẻ em chơi đu quay trong đêm cạnh vòm cây lớn sáng rực
trong ánh đèn cao áp bí hiểm và ẩn chứa bạo lực sắp ập xuống, như
trong phim của David Lynch. Cái gắn kết tất cả những hình ảnh đứt
đoạn này là âm thanh. Âm thanh được sử dụng tài tình để tăng thêm sự
hồi hộp, bứt rứt bất an. Ở cuối phim, cái duy nhất còn lại rất lâu sau khi
hình ảnh cuối cùng đã tắt là tiếng rền rĩ, lục bục, âm ỉ, rất trầm và đáng
sợ (tác giả để kéo dài gần 2 phút). Đó là âm thanh của những trận động
đất, được thu từ sâu bên dưới lòng đất. Ở đây, sự tĩnh lặng kết thúc của
Jo Ha Kyu có vẻ như là cái mở đầu cho một thảm kịch lớn.
Jamie Maxtone-Graham đóng góp với 60 bức ảnh mà anh gọi là “60
chỗ đứng”. Cũng giống như trong phim của Trinh Thi, không có gì đặc
trưng Tokyo trong chúng cả, chúng có thể là ảnh của bất cứ một thành
phố châu Á nào. Jamie Graham trung thành với phong cách của anh.
Một phần của series này là các ảnh chân dung cả người chụp trong một
studio: các cá nhân hay tốp người nhiều lứa tuổi khác nhau, đứng cạnh
hay ngồi trong một chiếc ghế bành, trước một thảm nhung xẫm mầu
nuốt hết ánh sáng nền. Đây là một studio di động mà Bảo tàng Nhiếp
ảnh Tokyo dựng nên để người xem có thể tự chụp bản thân. Anh đã
“tận dụng” nó để chụp các chủ thể của mình. Tuy nhiên, khác với các
cư dân Long Biên trong triển lãm cuối của anh tại Bui Gallery ở Hà
Nội, kích cỡ nhỏ của các chân dung này và sự u ám của phông nền làm
chúng thiếu sức lôi cuốn.
Phần còn lại của series thú vị hơn. Chúng nắm bắt những tình huống
hàng ngày và một số phong cảnh. Tuy được chụp ngay sau trận động
đất tháng 3. 2011, nhưng người xem sẽ khó nhận thấy tác động tâm lý
của thảm họa trong các bức ảnh. Jamie Graham quan tâm tới những con
người nhỏ bé và những tình huống giản dị: mấy người đàn ông trong
công viên, một cậu bé đang mở cửa nhà, hành khách trong tầu điện
ngầm. Đó là cuộc sống, đang xảy ra hàng ngày hàng giờ trên khắp mọi
nơi. Các bức ảnh được in trên plastic mỏng trong suốt, lồng khung mầu
đen và được chiếu sáng từ đằng sau bằng đèn LED, làm ta có cảm giác
đang đứng trước những chiếc IPad cỡ lớn. Có lẽ cái cảm giác ...