Từ thời xưa, nhà y học cổ đại Galien mô tả chứng nhức nửa đầu, gọi tên là Hemicranie. Đến thế kỷ 17 đổi thành tên Migraine. Có 50% người bệnh tại phòng khám có nhức đầu, trong số đó Migraine chiếm khoảng 30%. Bệnh thường xuất hiện lần đầu ở tuổi 20, có khi thấy ở trẻ 3 tuổi song rất hiếm, không thấy xuất hiện lần đầu ở tuổi 50.Một số điểm chính về chứng nhức nửa đầu (Migraine)Migraine có 2 loại: Migraine không có các rối loạn chức năng của vỏ não hoặc dưới vỏ, trước...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Không đơn giản khi dùng thuốc nhức nửa đầu Không đơn giản khi dùng thuốc nhức nửa đầu Ảnh minh họa. Từ thời xưa, nhà y học cổ đại Galien mô tả chứng nhức nửa đầu, gọitên là Hemicranie. Đến thế kỷ 17 đổi thành tên Migraine. Có 50% người bệnhtại phòng khám có nhức đầu, trong số đó Migraine chiếm khoảng 30%. Bệnhthường xuất hiện lần đầu ở tuổi 20, có khi thấy ở trẻ 3 tuổi song rất hiếm,không thấy xuất hiện lần đầu ở tuổi 50. Một số điểm chính về chứng nhức nửa đầu (Migraine) Migraine có 2 loại: Migraine không có các rối loạn chức năng của vỏ não hoặc dưới vỏ, trướcgọi là Migraine chung (common Migraine) nay gọi là Migraine không có aura. Loại này thường không có tiền chứng (mệt mỏi, cáu gắt...) chỉ gặp trong20% trường hợp, sau đó là cơn nhức đầu dữ dội. Cơn thường xảy ra vào đêm, lúcmới ngủ dậy, ít khi ban ngày. Cường độ tăng đến tối đa trong vòng vài giờ. Thoạtđầu nhức một bên, ở thái dương hay trán thái dương. Sau có thể lan ra toàn đầu,kết thúc cơn ở phía đối diện. Sự đổi bên đau chỉ gặp trong 25% trường hợp. Cơnđau giật theo nhịp đập mạch máu thái dương, khi mạch thái dương đập nhanhmạnh, cơn đau cũng giật nhanh mạnh theo. Người bệnh sợ tiếng động, ánh sáng,phải nằm chỗ tối, yên tĩnh. Đau thường kèm buồn nôn, gây cảm giác nặng nề, khóchịu, không ăn được, gầy. Khi đang cơn, có sắc mặt xanh nhợt, toàn thân lạnh,mạch nhanh (có thể chậm nhưng ít hơn). Có người còn rất nhạy cảm với mùi. Sauvài giờ hay đến 72 giờ, cơn đau tự chấm dứt, thường vào đêm, sáng ra chỉ còn thấynặng đầu âm ỉ. Migraine có các rối loạn chức năng của vỏ não hoặc ở dưới trước, gọi làMigraine cổ điển (clasic Migraine), nay gọi là Migraine có aura. Loại này khởi đầu bằng các rối loạn chức năng khu trú ở vỏ não hay thânnão trước khi có cơn khoảng 4 phút, kéo dài 5-20 phút, có khi dài hơn, song khôngquá 60 phút. Sau đó là cơn nhức đầu dữ dội, nôn, sợ tiếng động, ánh sáng. Cơnđau thường ngắn hơn loại trên. Sau vài giờ hay đến 24 giờ, cơn đau tự chấm dứt.Các rối loạn chức năng vỏ não gồm rối loạn: ám điểm lóe sáng mạnh, đom đómmắt, nhìn mờ; dị cảm môi miệng; không vận ngôn được, nói lắp, loạn ngôn, loạnviết; suy nghĩ chậm chạp, lú lẫn, mộng mị… Thực tế, không xuất hiện đầy đủ, chỉthấy nhìn mờ, hoa nhức mắt, rồi cơn đau đến nhanh, khu trú nửa đầu. Trong cả hailoại cơn có thể thưa (tháng chỉ một lần), có thể dày (tháng 3-4lần). Một số thuốc và những lưu ý khi dùng Thuốc thế hệ cũ: Loại chữa triệu chứng: Dùng khi cơn đau thưa. Thường là kháng viêm không steroid (NSAIDs) thếhệ cũ, như aspirin, paracetamol, ibuprofen, filurbiprofen, naproxen. Cơ chế giảmđau: do ức chế cyclooxygenase- 2 (COX-2) làm giảm tiết ra loại prostaglandin gâyđau. Tác dụng phụ: ức chế cyclo-oxygenase- 1 (COX-1) làm giảm tiết ra loạiprostaglandin có chức năng bảo vệ niêm mạc dạ dày-ruột, gây viêm loét dạ dày-ruột. Tuy nhiên, do chỉ dùng trong thời gian ngắn nên không gây hại. Cần dùngloại phóng thích nhanh để có hiệu quả sớm. Riêng người có tiền sử hay đang viêmđau dạ dày-ruột thì không dùng NSAIDs thế hệ cũ (kể cả viên bao tan trong ruộtnhư aspirin pH-8) mà dùng NSAIDs thế hệ mới. Thế hệ NSAIDs mới rất ít ức chế(COX-1) nên hầu như không gây tác dụng phụ. Có thể dùng 2-3 lần trong ngàycho đến khi hết cơn song không vượt liều tối đa (ví dụ aspirin chỉ dùng một lần1.000mg, mỗi ngày 2-3 lần). Loại dùng ngăn cơn đau: Thường dùng ergotamin, dihydroergotamin. Chúng làm co mạch, tác dụngđến quá trình bệnh lý đau. Khi mới có biểu hiện tiền chứng (mắt nhìn mờ, nhứcmắt, nổi đom đóm) dùng ngay sẽ ngăn không cho cơn đau xảy ra. Chúng khôngphải là thuốc phòng bệnh, nếu dùng lâu dài sẽ gây co mạch làm rối loạn tuần hoànngoại vi, thậm chí gây hoại tử. Cũng do làm co mạch nên không dùng cho ngườicó các bệnh: tăng huyết áp, thiếu máu cục bộ tim, đau thắt ngực do gắng sức, bệnhthận, gan, loét dạ dày-ruột, suy dinh dưỡng, rối loạn mạch máu ngoại vi, cườngtuyến giáp. Không dùng cho người có thai (gây sảy thai), cho con bú (thuốc bàitiết vào sữa mẹ). Loại ngừa cơn đau: Dùng cho người có cơn đau dày nhằm ngừa cơn tái phát. Thường dùng:flumarizin, pizotifen. Cơ chế: flumarizin chặn kênh canxi, chống sự tích tụ canxi trong tế bàothần kinh nên ức chế sự co mạch máu trong não; pizotifen chống lại sự tăng cườngchất dẫn truyền serotonin (là các nguyên nhân làm xuất hiện cơn Migraine). Tác dụng phụ chung: gây buồn ngủ, làm mệt mỏi song chỉ thoáng qua,ngừng dùng sẽ hết, sau đó có thể cho làm quen lại thuốc với liều thấp hơn.Flumarizin nếu dùng liều cao thì sự mệt mỏi có thể tiến triển đến lãnh đạm trì trệ,nếu dùng cho người suy kiệt có thể gây hội chứng ngoại tháp (vận động chậm,không linh hoạt, loạn vận động mặt - miệng hay rùng mình), phải ngừng điều trị. ...